...thủ phạm chính là gì?



Xác định đến cùng thủ phạm chính là gì?




NGUYỄN SĨ ĐẠI

***

Tôi muốn gửi tới các bạn, các đồng chí của tôi - những người đang lãnh đạo chủ chốt của tỉnh Hà Tĩnh hiện nay - bài báo nhỏ như là lời tâm sự này...

Thảm họa Formosa, “xác định đến cùng thủ phạm chính là gì” là đòi hỏi của nhân dân, của lịch sử được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đặt ra trong buổi làm việc với cán bộ Hà Tĩnh ngày 1/5/2016 (Báo Nhân Dân ngày 2-5-2016).


 
THẢM HỌA FORMOSA

Nếu nói sự kiện nào nổi bật nhất của năm 2016 thì sự kiện đó là thảm họa Formosa.
Nếu nói nỗi đau, nỗi nhục nào của Hà Tĩnh, làm mất đi rất nhiều vị thế, niềm tự hào của quê hương Hà Tĩnh thì đó là thảm họa Formosa.
Trong cuộc họp báo công bố tình hình kinh tế xã hội 9 tháng năm 2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, bà Nguyễn Thị Xuân Mai, Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động, Tổng cục Thống kê cho biết: "Thống kê bước đầu, Hà Tĩnh có hơn 24.400 người dân bị ảnh hưởng từ thảm họa của Formosa, trong đó hơn 15.000 người là trực tiếp đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản, còn lại là kinh doanh thuỷ sản và dịch vụ hậu cần 1.000 người, dịch vụ nhà hàng khách sạn gần 700 người, sản xuất muối 428 người"(Xem Dân trí 30/9/2016 và các báo cùng ngày). Đây là mới nói Hà Tĩnh, chưa nói đến Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế.
Gây ra thảm họa này, không ai khác là lãnh đạo Hà Tĩnh những nhiệm kỳ trước. Nhưng nhiều đồng chí trong nhiệm kỳ trước, còn tại vị trong nhiệm kỳ này cũng có trách nhiệm của mình.
Tôi nghĩ, chuyện xẩy ra như bát nước đã đổ, không thể hót lại; song từ mất mát, nếu rút ra được những bài học, sẽ tránh được sự đau đớn, mất mát trong tương lai. Có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về nguyên nhân thảm họa Formosa. Cách nghĩ của tôi là:
Tầm nhìn ngắn, bàn tay dài
Tôi chia sẻ với Võ Kim Cự, nguyên Chủ tịch, nguyên Bí thư Hà Tĩnh, rằng khi Hà Tĩnh kêu gọi đầu tư và thực hiện dự án này chỉ nghĩ nó “thay đổi được một vùng khó khăn, dân nghèo khổ, mong có một nguồn lực lớn cho dân có việc làm để thoát nghèo, phải có một cú hích, có công nghiệp làm nền tảng”. (Lao Động, 25/7/2016).
Đó là một lý do đẹp đẽ và ông Cự cũng thừa nhận rằng, đã không lường hết được sự phức tạp và hậu quả nghiêm trọng. Làm công nghiệp mà không lường được hậu quả thì không thể chấp nhận được! Hồi tôi làm phóng viên thường trú ở Nghệ An, Hà Tĩnh, đi đâu cũng vang lên bài ca sắt Thạch Khê và cảng nước sâu Vũng Áng. Ngay khi ấy tôi đã thấy ngượng và nhiều người không hài lòng vì tôi không viết bài ủng hộ tỉnh. Đến nay, sau bao nhiêu nghị quyết, sau khi mất bao nhiêu tiền, Thạch Khê vẫn chưa có cân sắt nào mà còn làm đảo lộn cuộc sống của nhân dân trong vùng. Còn với cảng Vũng Áng, Hà Tĩnh cũng chưa có hàng gì xuất để thu tiền và đã nhập được những điều tai hại…
Và cũng nhiều năm nay, quanh tai tôi luôn vang lên những lời ca ngợi của chuyên viên các bộ, của phóng viên báo chí rằng “Hà Tĩnh chơi được, cán bộ rất thoáng”. Phong bì phong bao vài chục triệu là chuyện thường. Rồi lại còn tự hào sau mỗi kỳ Đại hội Đảng, Hà Tĩnh có bao nhiêu Ủy viên Trung ương, bao nhiêu bộ, thứ trưởng. Tôi cũng mừng cho quê hương, nhưng để khoe mẽ thì không, nhiều khi còn thấy xấu hổ và đau xót vì tỉnh nhà có nhiều cán bộ quan trọng lại dễ ủng hộ nhau làm điều tiêu cực.
Công nghiệp Hà Tĩnh xưa chỉ có cái nhà máy cơ khí Ấp Bắc. Rồi Nhà máy xi măng Lam Hồng, nhà không ra nhà, máy không ra máy. Thập kỷ 90 đi mua một cái nhà máy đường cổ lỗ bên Liêu Ninh, Trung Quốc.
Anh H. bị bắt làm giám đốc vò đầu bứt tai suốt ngày kêu khổ. Không chuẩn bị, không nghiên cứu kỹ nên không đủ nguyên liệu. Không ít cán bộ bị kỷ luật oan vì không trồng mía đủ chỉ tiêu tỉnh giao. Kỷ luật cũng không ra mía được, cũng không làm được cân đường có giá cạnh tranh, cuối cùng phải bán vào nam. Trẻ con làm vỡ cái bát thì bị đánh no đòn, còn những chuyện như thế rồi chẳng ai sao cả!
Nói chung, chưa thạo làm công nghiệp và vận hành nền kinh tế thị trường.
Ti-tan là quặng quý, có hạn. Nhưng việc khai thác, xuất khẩu đã không làm giàu cho người dân sở tại, những người dân đáng được hưởng thứ trời đất đã ban tặng, quá khứ đã gửi lại cho họ. Tất nhiên, có làm giàu cho một số người.
Chưa đủ tầm nhìn, trình độ, chưa đủ nhân lực, vật lực mà vội vã chạy đua công nghiệp, bập vào những dự án khổng lồ, thất bại là tất yếu. Nhưng ở địa phương nào có nhiều dự án, thì một số cán bộ dễ thò bàn tay dài của mình bòn rút. Bằng đủ mọi cách. Ăn của nhà đầu tư. Ăn cả của dân trong giải phóng mặt bằng. Ăn của doanh nghiệp mà chẳng làm gì cho họ.
Ở Kỳ Sơn, Nghệ An năm nọ có người Mông bẫy được con gấu rừng. Anh ta bán được ba cái mật gấu cho ba người, ai cũng hỉ hả, tưởng mình mùa được đồ thật, đồ quý trong khi cái mật gấu thật vẫn ở trong buồng của anh người Mông nọ. Cái anh ở ban quản lý dự án cũng vậy; nhận hồ sơ, nhận tiền bôi trơn của ba anh doanh nghiệp; anh nào cũng hỉ hả, tưởng mình sẽ trúng; cuối cùng chẳng anh nào trúng mà lại là anh X, Y… nào đó!

 
KHÔNG CHO DÂN BIẾT, DÂN BÀN, DÂN QUYẾT

Tài sản là của nhân dân. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đều khẳng định nhân dân phải được quyền tự quy định, quyết định lấy vận mệnh của mình.
Vậy mà trong nhiều việc hệ trọng, hầu như dân không hề được biết, được bàn, được quyết. Dân chỉ là người thi hành, người phải chịu đựng.
Điều này trái với mục tiêu, lý tưởng cách mạng; trái với chân lý.
Hiến pháp khẳng định: Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Hầu như ai cũng nói: Nhân dân ta anh hùng, nhân dân thông minh. Nhân dân là chủ, nhân dân thông minh; vậy sao không hỏi dân; không cho dân quyết?
Từ việc to đến việc nhỏ đều phải hỏi ý kiến dân; không thể tự quyết bằng một nhóm người, thậm chí chỉ một người. Nhân đây, xin nhắc lại một cán bộ Hà Nội từng nói, trồng cái cây trên đường phố thì có gì phải hỏi dân? Ơ hay, đường phố của dân chứ đâu phải của anh chủ tịch? Kiểu tư duy ấy ngày nay không được phép tồn tại.
Vì cách nghĩ ấy, vì kiểm soát quyền lực không tốt nên người đứng đầu một địa phương đã tự đội vương miện cho mình; vượt quyền của Đảng, của dân.
Thường vụ không nên đặt cho mình có quyền tất cả, càng không nên nghĩ có khả năng độc quyền chân lý.
Phải đẩy mạnh dân chủ, phải trưng cầu dân ý trong mọi lĩnh vực. Có như vậy mới thực hiện được lý tưởng đẹp đẽ của cách mạng, mới bớt được sai lầm.
 
SỰ IM LẶNG ĐÁNG SỢ
Báo cáo chính trị của BCH TƯ khóa V tại ĐH VI của Đảng do đồng chí Trường Chinh trình bày có một câu rất nổi tiếng: “Thái độ của Đảng ta trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”.
Từ sự cố Formosa ta thấy có ba kiểu im lặng đáng sợ, khác xa thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật.
Một là, trong Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hà Tĩnh chắc chắn có nhiều đồng chí có hiểu biết không đồng tình hoặc băn khoăn với việc một tập đoàn từng làm ảnh hưởng môi trường ở nhiều nước, có công nghệ luyện thép lạc hậu vào Hà Tĩnh; biết trong quá trình thực hiện có nhiều sai phạm; song không dám nói, không dám bày tỏ chính kiến, nếu không sợ thì cũng có biểu hiện cơ hội.
Tôi nhớ ý kiến tự kiểm điểm của đồng chí Trường Chinh tại Hội nghị Bộ Chính trị ngày 4/4/1986. Tại đó, đồng chí đã thẳng thắn nhận “đã thông qua một số quyết định sai”, “đã không thẳng thắn nói hết được ý kiến để cùng nhau thảo luận nhất trí, đã không kiên trì cái đúng” (xem Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam 12/10/2016).
Hai là, vẫn còn hiện tượng bưng bít thông tin, thậm chí xuyên tạc sự thật. Ngày 6/4 nhân dân phát hiện cá chết hàng loạt ở bốn tỉnh miền Trung. Trước đó, hai ngày, một thợ lặn Hà Tĩnh phát hiện Formosa thải độc ra biển bằng đường ống ngầm có đường kính lớn. Ngày 25/4, Phó phòng Đối ngoại của Formosa Chu Xuân Phàm tiết lộ “muốn bắt cá, bắt tôm hay muốn xây dựng ngành công nghiệp thép”.
Những ngày đó, nhiều nhà khoa học đã đặt nghi vấn về nhân tai; còn nhiều cán bộ thì biết chắc rằng do Formosa; vậy mà ngày 27/4, Bộ Tài nguyên - Môi trường trong cuộc họp báo kỳ dị 7 phút đưa ra nguyên nhân cá chết là do thủy triều đỏ và coi ai có ý kiến khác là “làm tổn hại đất nước”! Thật trớ trêu và cũng trớ trêu là một số cán bộ lãnh đạo địa phương vùng bốn tỉnh bị nhiễm độc kêu gọi dân ăn cá và tắm biển! Đưa môi trường đất nước, đưa mạng dân vào nguy hiểm, thật không hiểu làm chính trị kiểu gì?
Ba là, báo chí và truyền thông không làm tròn sứ mệnh cao cả của mình; chưa chủ động thông tin, chưa thực hiện tốt vai trò phát hiện và đấu tranh làm sáng tỏ sự thật; làm tốt vai trò phản biện xã hội. Có hiện tượng báo địa phương đưa tin theo lãnh đạo địa phương bất chấp nhân dân, bất chấp sự thật. Có nhà báo phục vụ lợi ích nhóm, chà đạp lên sứ mệnh vẻ vang của báo chí là phục vụ lợi ích công...

 
LỜI KẾT
Nguyên nhân trực tiếp dễ biết. Nguyên nhân sâu xa không phải ở Formosa mà ở chính mình, trong hệ thống của mình (tức tất cả chúng ta, không trừ một ai). Tôi thêm một lần nhắc tôi và muốn gửi tới các bạn, các đồng chí tôi ở Hà Tĩnh: Ngày nào cũng nên hỏi mình: Mình đang làm gì, làm việc này vì ai, hôm nay mình đã sai gì và ngày mai làm điều gì cho tốt hơn? Và bất luận trong trường hợp nào cũng phải đứng về phía nhân dân; bất luận trường hợp nào cũng phải bảo vệ lẽ phải. Người tốt không phải là người im lặng; người tốt phải tập hợp lại! Xin cho tôi gửi tới các bạn câu thơ của tôi trong bài “Tự sự đảng viên”: Những kẻ xấu thường hay tập hợp/ Người tốt thường hiền, hiền quá cũng vô lương.
Và nếu làm cán bộ để vơ vét làm giàu, để bóp nặn của dân thì đó là điều tủi hổ muôn đời; không xứng đáng là người Hà Tĩnh!



NGUYỄN SĨ ĐẠI

Về Bài Thơ Khúc Thụy Du.




Về Bài Thơ Khúc Thụy Du.











Khi biến cố Tết Mậu Thân, 1968 xẩy ra, đó cũng là lúc cuộc tình của tôi và một nữ sinh viên trường Dược, ở Saigòn cũng khởi đầu.

Đầu tháng 3-1968, tôi bị chỉ định đi làm phóng sự một tiểu đoàn TQLC đang giải toả khu Ngã tư Bảy Hiền.

Lúc đó, cả thành phố Saigòn vẫn còn giới nghiêm. Trên đường đi, từ cục TLC ở đầu đường Hồng Thập Tự, gần cầu Thị Nghè tới khu Ngã tư Bảy Hiền, đường xá vắng tanh. Khi gần tới ngã tư Bảy Hiền, ngoại ô Saigòn, tôi thấy trên đường đi còn khá nhiều xác chết. Đó là những xác chết không toàn thây, bị cháy nám; rất khó nhận biết những xác chết là dân chúng, binh sĩ hay bộ đội CS.

Khi tới gần khu ngã tư Bảy Hiền, dù không muốn nhìn, tôi vẫn thấy rất nhiều mảnh thịt người vương vãi hai bên đường. Có cả những cánh tay văng, vướng trên giây điện…Rất nhiều căn nhà trúng bị bom, đạn. Đổ nát. Tôi cũng thấy những con chó vô chủ gậm chân, tay xương người bên lề đường… Tất cả những hình ảnh ghê rợn này đập vào mắt tôi, cùng mùi hôi thối tẩm, loang trong không khí.

Khi tới vùng giao tranh, tôi gặp người trách nhiệm cuộc hành quân giải toả khu chợ Bảy Hiền. Đó là thiếu tá Nguyễn Kim Tiền. Anh vốn là một bạn học thời trung học của tôi. Tiền cho biết, đơn vị của anh đang ở giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. hai bên rình rập nhau, như trò cút bắt, để tranh giành từng gian hàng, từng ngôi nhà… Anh nói tôi phải rời khỏi khu chợ, lập tức. Vì anh không thể bảo đảm sinh mạng cho tôi, dù là bạn cũ….

Trên đường về, cái khung cảnh hoang tàn, đổ nát với xương thịt người vung vãi khắp nơi, cùng với mùi người chết sình thối…khiến tôi muốn nôn oẹ, một lần nữa lại gây chấn động dữ dội trong tôi…
Giữa tháng 3 – 1968, nhà văn Trần Phong Giao, Thư ký toà soạn Tạp chí Văn, gọi điện thoại vào phòng Báo Chí, cục TLC, hỏi tôi có thể viết cái gì đó, cho Văn số tục bản.

Gọi là “tục bản” bởi vì sau số Xuân, khi biến cố mồng 1 Tết xẩy ra, báo Văn ngưng xuất bản. Lý do, các nhà phát hành không hoạt động. Đường về miền tây cũng như đường ra miền Trung bị gián đoạn. Saigòn giới nghiêm. Tuy nhiên, ông nói, hy vọng ít ngày nữa, giao thông sẽ trở lại -  - Thêm nữa, không thể để Văn đình bản quá lâu.
Sau khi nhận lời đưa bài cho Trần Phong Giao, tôi mới giật mình, hốt hoảng.

Tôi nghĩ, giữa tình cảnh ấy, tôi không thể đưa ông một bài thơ tình, hay một chuyện tình. Mặc dù thơ tình hay chuyện tình là lãnh vực của tôi thuở ấy. Nhưng, tôi thấy, nếu tiếp tục con đường quen thuộc kia, tôi sẽ không chỉ không phải với người đọc mà, tôi còn không phải với hàng ngàn, hàng vạn linh hồn đồng bào, những người chết tức tưởi, oan khiên vì chiến tranh nữa…

Cuối cùng, gần hạn kỳ phải đưa bài, nhớ lại những giờ phút ở ngã tư Bảy Hiền, tôi ngồi xuống viết bài thơ ghi lại những gì mục kích trên đường đi.
Viết xong, tôi không tìm được một nhan đề gần, sát với nội dung!
Bài thơ dài trên 100 câu. Nhưng khi Văn đem đi kiểm duyệt, bộ Thông Tin đục bỏ của tôi gần 1/ 3 nửa bài thơ.

Thời đó, tôi viết tay, không có bản phụ, nên, sau này khi gom lại để in thành sách, tôi không có một bản nào khác, ngoài bản in trên báo Văn (đã kiểm duyệt.)
Tuy còn mấy chục câu thôi, nhưng nội dung bài thơ, từ đầu đến cuối, vẫn là một bài thơ nói về thảm cảnh chiến tranh. Người phụ trách phần kiểm duyệt vẫn để lại cho bài thở của tôi những câu cực kỳ “phản chiến” như: “…Ngước lên nhìn huyệt lộ - bày quả rỉa xác người - (của tươi đời nhượng lại) - bữa ăn nào ngon hơn – làm sao tôi nói được…” Hoặc: “…Trên xác người chưa rữa – trên thịt người chưa tan – trên cánh tay chó gậm – trên chiếc đầu lợn tha…” vân vân…  

Nói cách khác, tình yêu chỉ là phần phụ; với những câu hỏi được đặt ra cho những người yêu nhau, giữa khung cảnh chết chóc kia, là gì? Nếu không phải là những tuyệt vọng cùng, tất cả sự vô nghĩa chói gắt của kiếp người?

Như đã nói, thời gian ra đời của bài thơ cũng là khởi đầu của cuộc tình giữa tôi và một sinh viên đại học Dược…Tôi lấy một chữ lót trong tên gọi của người con gái này, cộng với chữ đầu, bút hiệu của tôi, làm thành nhan đề bài thơ. Nó như một cộng nghiệp hay chung một tai hoạ, một tuyệt lộ.
Bài thơ ấy, sau đó tôi cho in trong tuyển tập “Thơ Du Tử Lê (1967-1972).
Cuối năm, tập thơ được trao giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc, bộ môn thi ca, 1973.

Năm 1983, tôi cho tái bản cuốn thơ này sau khi được một độc giả du học tại Mỹ trước năm 1975, cho lại. Cô nói, tôi phải hứa in lại và dành bản đầu tiên cho cô…
Sau đấy, một buổi tối, nhạc sĩ Anh Bằng đến tìm tôi ở quán Café Tay Trái (toạ lạc ngay ngã tư đường Trask và Fairview.) Ông nói, ông mới phổ nhạc bài “Khúc Thuỵ Du.” Ông cho tôi quyền chọn người hát. Ông nhấn mạnh:
“Tôi có thể chỉ cho người đó hát…”
Thời gian đó, trong số bằng hữu giúp tôi điều hành Café Tay Trái, có nhạc sĩ Việt Dzũng. Lúc nhạc sĩ Anh Bằng đến tìm tôi, cũng là lúc Việt Dzũng có mặt; đang chuẩn bị cho chương trình ca nhạc buổi tối. Tôi giới thiệu hai người với nhau.

Khi ca khúc “Khúc Thuỵ Du” ra đời dạng casette, với tiếng hát của Việt Dzũng, tôi mới biết, nhạc sĩ Anh Bằng chỉ lọc, lựa một số câu thơ liên quan tới tình yêu mà, không lấy một câu thơ nào nói một cách cụ thể về chiến tranh, chết chóc… Chết chóc hay chiến tranh được hiểu ngầm, như một thứ background mờ nhạt.

Từ đó đến nay, thỉnh thoảng vẫn còn có người lên tiếng phản đối sự giản lược nội dung bài thơ của tôi vào một khía cạnh rất phụ: Khía cạnh tình yêu trong ca khúc “Khúc Thuỵ Du”…
Nhưng, hôm nay, sau mấy chục năm, nhìn lại, tôi thấy, ông cũng có cái lý của ông…



(1-30-2010.)
Du Tử Lê


KHÚC THỤY DU 

1.


như con chim bói cá
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đánh mất
trong vụng nước cuộc đời 
như con chim bói cá
tôi thường ngừng cánh bay
ngước nhìn lên huyệt lộ
bầy quạ rỉa xác người
(của tươi đời nhượng lại)
bữa ăn nào ngon hơn
làm sao tôi nói được 
như con chim bói cá
tôi lặn sâu trong bùn
hoài công tìm ý nghĩa
cho cảnh tình hôm nay 
trên xác người chưa rữa
trên thịt người chưa tan
trên cánh tay chó gặm
trên chiếc đầu lợn tha
tôi sống như người mù
tôi sống như người điên
tôi làm chim bói cá
lặn tìm vuông đời mình 
trên mặt đất nhiên lặng
không tăm nào sủi lên
đời sống như thân nấm
mỗi ngày một lùn đi
tâm hồn ta cọc lại
ai làm người như tôi ? 

2.


mịn màng như nỗi chết
hoang đường như tuổi thơ
chưa một lần hé nở
trên ngọn cờ không bay
đôi mắt nàng không khép
bàn tay nàng không thưa
lọn tóc nàng đêm tối
khư khư ôm tình dài 
ngực tôi đầy nắng lửa
hãy nói về cuộc đời
tôi còn gì để sống
hãy nói về cuộc đời
khi tôi không còn nữa
sẽ mang được những gì
về bên kia thế giới
thụy ơi và thụy ơi 
tôi làm ma không đầu
tôi làm ma không bụng
tôi chỉ còn đôi chân
hay chỉ còn đôi tay
sờ soạng tìm thi thể
quờ quạng tìm trái tim
lẫn tan cùng vỏ đạn
dính văng cùng mảnh bom
thụy ơi và thụy ơi
đừng bao giờ em hỏi
vì sao mình yêu nhau
vì sao môi anh nóng
vì sao tay anh lạnh
vì sao thân anh rung
vì sao chân không vững
vì sao anh van em
hãy cho anh được thở
bằng ngực em rũ buồn
hãy cho anh được ôm
em, ngang bằng sự chết 
tình yêu như ngọn dao
anh đâm mình, lút cán
thụy ơi và thụy ơi
 không còn gì có nghĩa
ngoài tình anh tình em
đã ướt đầm thân thể 
anh ru anh ngủ mùi
đợi một giờ linh hiển

(3-68)
Du Tử Lê







........./.

HỌC GIẢ TRƯƠNG VĨNH KÝ



HỌC GIẢ TRƯƠNG VĨNH KÝ


https://www.facebook.com/lenguyenpd/posts/1160254834072491


*****

* Nhân chuyện lùm xùm liên quan đến quyển sách về nhân vật Trương Vĩnh Ký vừa phát hành, vài bạn có yêu cầu tôi cho biết quan điểm về "công" và "tội" của cụ. Xin post lại một bài cũ của tôi về nhân vật này để các bạn tùy nghi nhận định
*****


CHUYẾN BẮC HÀNH CỦA HỌC GIẢ TRƯƠNG VĨNH KÝ
VÀ CÁI CHẾT CỦA TỔNG TRÚ SỨ PAUL BERT


Hầu hết người Việt Nam và nhất là giới nghiên cứu sử học đã quá quen thuộc với Pétrus Trương Vĩnh Ký, một học giả xuất chúng am hiểu nhiều ngoại ngữ và có công lớn trong việc vận dụng chữ quốc ngữ trong giai đoạn sơ khai vào đời sống cộng đồng. Hàng trăm tác phẩm do ông để lại - đã xuất bản cũng như chưa xuất bản - có giá trị rất lớn trong điều kiện một xã hội Việt còn lạc hậu và đang bị ngoại bang chi phối. Tuy nhiên, có một mảng không nhỏ trong cuộc đời ông ít được đề cập đến, hoặc đề cập không đầy đủ, rõ ràng, khiến cho việc tìm hiểu và nhận định về nhân vật đặc biệt này dễ rơi vào trạng thái khiếm khuyết, phiến diện. Đó là mối quan hệ của Trương Vĩnh Ký với triều đình Huế, và nhất là với thực dân Pháp vào nửa sau thế kỷ 19.

***

Nói đến khả năng về ngoại ngữ của Trương Vĩnh Ký, có thể viện dẫn sau đây mấy dòng hồi ký của một du khách người Anh là J. Thomson, trong tác phẩm nhan đề 10 năm du hành ở Trung Quốc và Đông Dương:
“ Ông Petrousky (Petrus Ký-LN), một giáo dân Nam kỳ và là giáo sư dạy tiếng mẹ đẻ của ông tại Trường Thông ngôn Sài Gòn, là một ngoại lệ đáng lưu ý trong số những người bản xứ mà tôi vừa giới thiệu cùng bạn đọc. Ông từng theo học tại trường dòng Penang và tôi không bao giờ quên nỗi kinh ngạc khi được giới thiệu với ông.
Ông nói chuyện với tôi bằng một thứ tiếng Anh rất vững, với một cách nhấn nhẹ nhàng của người Pháp, còn với tiếng Pháp, ông diễn tả không kém phần trong sáng và lịch sự. Tiếng Y Pha Nho, Bồ Đào Nha, Ý, ông cũng quen thuộc như những ngôn ngữ phương Đông; chính nhờ sự hiểu biết đặc biệt này mà ông đang nắm giữ một địa vị cao. Một ngày nọ đến thăm ông, tôi nhìn thấy ông đang thực hiện quyển Phân tích, đối chiếu các thứ tiếng chủ yếu trên thế giới, tác phẩm mà ông phải bỏ ra 10 năm lao động miệt mài. (Jean Bouchot – Un savant et un patriote cochinchinois – Petrus J.B. Trương-Vĩnh-Ký (1837-1898)- trang 43) .
Nhờ sự uyên bác mà vào năm 1863, Trương Vĩnh Ký được tháp tùng phái bộ Phan Thanh Giản trong chuyến đi sứ sang Pháp (*) và quen biết với nhiều nhân vật nổi tiếng tại châu Âu lúc bấy giờ như Victor Hugo, Ernest Renan, Littré, Paul Bert…
Trong những thập niên 1860-1870, ngoài tư cách người phụ trách tờ Gia Định báo (từ 16.9.1869), Trương Vĩnh Ký còn giữ nhiều trách vụ khác như: thông ngôn của Soái phủ Nam kỳ, giáo sư trường thông ngôn (Collège des Interprètes), giáo sư trường Tham biện hậu bổ (Collège des Stagiaires), được Pháp phong ngạch trật Huyện hạng nhất năm 1872.
Trong thời gian cộng tác với Pháp, Trương Vĩnh Ký đã thực hiện hai cuộc Bắc hành, vào những năm 1876 và 1886. Chuyến thứ nhất được kể lại trong tập hồi ký bằng tiếng Việt, bìa in ba thứ tiếng: Pháp (Voyage au Tonkin en 1876), Việt (Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1876)) và Hoa. Chuyến thứ hai đánh dấu bằng nhiều thư từ trao đổi giữa Trương Vĩnh Ký và một nhân vật quan trọng bậc nhất của Pháp lúc bấy giờ là Tổng Trú sứ Paul Bert.

Vấn đề đặt ra cho những người tìm hiểu các chuyến đi quan trọng này của nhà học giả là mục tiêu chính của chúng.
Tại trang đầu tiên của tác phẩm Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi, người ta đọc thấy:”Năm Ất Hợi, bãi trường tham biện vừa xong, vùng tính đi ra Bắc chơi một chuyến cho biết. Trong bụng muốn cũng đã lâu; nên xin với quan trên (đây ám chỉ thực dân Pháp-LN), nhơn diệp (sic) chiếc tàu Duchaffaud đi mà đi. Về sấm (sic) hòm rương áo quần. Rủ thầy ba Hớn với ông sáu Thìn, nguyên một người ở tỉnh Bắc Ninh, một người ở Sơn Tây mà vào trong Nam kỳ đã lâu, đi theo trước là cho có bạn, sau nữa là cho họ về thăm quê quán….”

Như vậy theo tinh thần đoạn mở đầu, Trương Vĩnh Ký thực hiện chuyến Bắc hành lần thứ nhất nhằm “chơi một chuyến cho biết”, nói chung là một chuyến du hành “phi chính trị”. Đến miền Bắc, ông đi nhiều nơi, từ Hà Nội, Hải Phòng đến Hải Dương, Thanh Hóa…Ở đâu, ông cũng được tiếp đón một cách trọng thị. Các công sứ Pháp và các đại thần như Tổng đốc Hà Nội Trần Đình Túc, Tổng đốc Hải Dương Phạm Phú Thứ, Tuần phủ Nguyễn Tăng Doãn …đã dành cho ông những cuộc hội kiến thú vị.

Tuy nhiên, qua những gì diễn ra trong và sau chuyến đi, nhiều người tin rằng đó không phải là một chuyến du hành suông.
Pétrus Ký được hưởng lương trong suốt thời gian 3 tháng du hành và khi về, ông đã lập một báo cáo chi tiết dài 8 trang đề ngày 28.4.1876 gửi Thống Đốc Nam kỳ Duperré (về Pháp từ tháng 2 đến tháng 7.1876) thông qua viên Tham mưu trưởng Regnault de Premesnil. Báo cáo mở đầu bằng câu: “Tôi hân hạnh gửi đến ông bản báo cáo mà ông đã yêu cầu ở tôi về tình hình chính trị Bắc kỳ, nơi tôi vừa đến thăm..” (Jean Bouchot-Sđd-trang 34). Sau đó, Trương Vĩnh Ký trình bày một cách thật chi tiết hành trình của ông trong ba tháng ở miền Bắc, những nơi ông đã đến, những người ông đã gặp, trong đó có đoạn viết:”Các quan lại thường hỏi tôi xem nước Pháp có ý định xâm chiếm xứ sở này không. Tôi đã trả lời rằng không và tôi đã dựa điều tôi nói vào thỏa ước hòa bình và thương mại, vào những lợi ích mà họ (người Pháp-LN) đảm bảo cho An Nam….” (Jean Bouchot-Sđd – trang 39).
Nhiều chi tiết khác nữa cho thấy báo cáo ngày 28.4.1876  không phải là câu chuyện kể của một du khách độc lập, mà là bản tường trình của một viên chức chính quyền cho cấp trên về một số vấn đề chính trị. Điều này được chính Jean Bouchot thừa nhận trong tác phẩm dẫn trên, nhất là khi ông liệt kê những gì liên quan đến một Trương Vĩnh Ký có mối quan hệ chặt chẽ với nhà nước thuộc địa: năm 1872 được phong Huyện hạng nhất với mức lương 2.400 franc/năm, phụ trách các lớp dạy ngôn ngữ Đông phương với mức lương 9.000 franc, được bổ nhiệm làm thành viên Ủy ban tối cao giáo dục….

**
Trong hình ảnh có thể có: 1 người
HỌC GIẢ TRƯƠNG VĨNH KÝ



Chuyến Bắc hành lần thứ hai của Trương Vĩnh Ký có liên quan đến một nhân vật cao cấp của chính quyền thực dân mà ông đã gặp trong chuyến tháp tùng sứ bộ Phan Thanh Giản năm 1863. Đó là Paul Bert, người từng giữ chức vụ Bộ trưởng trong chính phủ Pháp.
Ngày 27.1.1886, Tổng thống Pháp ban hành sắc lệnh thành lập chế độ bảo hộ ở Trung và Bắc kỳ, và bốn ngày sau, đề cử Paul Bert làm Tổng Trú sứ (Résident général) hai miền này. Nhân vật này sinh ngày 17.10 1838 tại Auxerre (Pháp), là nhà sinh vật học, môn sinh nhà bác học Claude Bernard, đến năm 1868, đã thay chân Bernard tại Collège de France. Vào thời đó, Paul Bert đã là tác giả các công trình nghiên cứu về ghép cơ thể loài vật, về thuốc mê…Sau năm 1870, trong lúc vẫn tiếp tục việc nghiên cứu khoa học, ông ta bước vào chính trường, làm đại biểu Quốc Hội năm 1872, Bộ trưởng giáo dục những năm 1881-1882 .

Paul Bert đến Sài Gòn vào tháng 2 năm 1886, và người Việt Nam đầu tiên mà ông ta nghĩ đến là Trương Vĩnh Ký. Việc trao đổi thư từ bắt đầu diễn ra, Paul Bert đến thăm gia đình nhà học giả Việt Nam.
Ngày 8.4.1886, ông ta trở ra miền Bắc, thực sự nhận nhiệm vụ Tổng Trú sứ Bắc và Trung kỳ. Tuy khoảng thời gian ở Việt Nam thật ngắn ngủi, nhưng Paul Bert đã miệt mài làm việc, thực hiện được nhiều điều trong cương vị đầy khó khăn của mình. Ông ta thành lập các tòa công sứ, một hệ thống tổ chức mới mẻ, giúp củng cố chế độ cai trị ở cấp tỉnh, thành.
Vốn là nhà khoa học, trong tổ chức hoạt động của các tòa công sứ, ông ta rất chú trọng đến vấn đề vệ sinh. Nhờ một hệ thống thuế quan khéo léo, ông ta du nhập vào Bắc kỳ nhiều sản phẩm từ chính quốc (Pháp) mà không làm rối loạn thói quen sử dụng hàng châu Á của người bản xứ.
Các mỏ than, đường sắt, việc vận tải đường sông nhờ có Paul Bert mà trở nên nhộn nhịp hẳn lên. Ông ta đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục, đích thân giám sát các kỳ thi…
Đối với triều đình Huế, Paul Bert áp dụng chế độ bảo hộ thực sự, để cho triều đình có một sự tự do rộng rải để hoạt động, từ chối việc đặt một viên đại diện chính phủ Pháp tại Viện Cơ mật.
Ngày 10.6.1886, thể theo yêu cầu của ông ta, vua Đồng Khánh phải chia sẻ quyền hành cho một viên kinh lược tại Bắc kỳ. Người đầu tiên đảm trách chức vụ này là Nguyễn Hữu Độ. Để đảm bảo hơn nữa sự hữu hiệu trong chính sách của mình, Paul Bert muốn đặt hẳn một người Việt Nam thân cận với ông ta tại triều đình Huế. Người này sẽ theo sát mọi hoạt động của nhà vua, giúp đỡ nhà vua, theo cách mà chính quyền thực dân muốn.
Cần xác định rõ là vào thời kỳ Paul Bert đến Việt Nam (đầu năm 1886), trong bộ máy cai trị của Pháp, có hai chức danh không thống thuộc nhau, cho dù không ngang nhau về mặt hệ cấp. Đó là chức danh Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) và chức danh Tổng trú sứ Trung và Bắc kỳ, hay còn gọi là Toàn quyền Lưỡng kỳ (Résident général du Tonkin et de l'Annam). Viên Tổng trú sứ chịu trách nhiệm việc cai trị Trung và Bắc kỳ, còn viên Thống đốc chịu trách nhiệm riêng thuộc địa Nam kỳ.
Chỉ đến ngày 16.11.1887, sau khi Constans đến Việt Nam nhậm chức Toàn quyền Đông dương đầu tiên thì sự chỉ huy thống nhất ba miền Nam-Trung-Bắc mới thực sự nằm trong tay viên Toàn quyền.
Chính vì thế, trong thời gian còn ở Sài Gòn, chờ ra Bắc nhậm chức Tổng Trú sứ Bắc và Trung kỳ (dưới đây gọi tắt là Tổng trú sứ), Paul Bert phải đạt được sự thỏa thuận của Soái phủ Nam kỳ trong việc tạm sử dụng Trương Vĩnh Ký cho kế hoạch mà ông ta đã vạch ra.
Điều này gần như chỉ có tính hình thức, bởi vì quyền lợi của bọn thực dân thì ở đâu cũng vậy, miễn là có lợi cho họ.
Ngày 22.3.1886, Paul Bert gửi cho Trương Vĩnh Ký một lá thư nêu rõ hai việc: nhờ họ Trương lập danh sách những người có khả năng thông dịch tốt để sau này bố trí cạnh các tòa trú sứ của ông ta; mời vợ con ông Ký cùng đi với ông Ký (và Paul Bert) ra Huế. Năm ngày sau (27.3), họ Trương phúc đáp cho Paul Bert, nêu rõ việc đã lập xong danh sách thông ngôn và nêu lý do vợ con không thể tháp tùng ông được (Jean Bouchot-Pétrus J.B.Trương-Vỉnh-Ký (1837-1698) Editions Nguyễn Văn Của-Saigon-1927-trang 54-56).
Trong thư trên, Trương Vĩnh Ký có viết câu:”…tôi sẵn lòng đi với Ngài cùng vài thân hữu đáng tin cậy, trong một sứ mạng tạm thời để rồi sau đó, âm thầm quay lại nghề Nho, như ông Cincinnatus đã quay lại với cái cày của ông ta vậy…” (Sđd-trang 56)

Những ngày đầu tháng 4 năm 1886, Paul Bert và Trương Vĩnh Ký đã có mặt ở Huế. Chính sử triều Nguyễn viết về sự kiện này như sau: “Đại thần nước Đại Pháp là Bôn Be sang làm toàn quyền đại thần. Viện Cơ mật tâu nói: Tục các nước phương Đông, phương Tây, phần nhiều vụ lấy danh tiếng; cho nên các bậc sĩ phu học rộng, đi đến nước nào, phàm được dự tuyển vào địa vị thanh cao trọng yếu, thì lấy làm vẻ vang….Vua bèn chuẩn cho tôn toàn quyền đại thần Bôn Be làm Hàn lâm viện trực học sĩ, và ẩn sĩ trong Nam là Trương Vĩnh Ký (người Gia Định đi theo Toàn quyền đến) làm Hàn lâm viện thị giảng học sĩ…” (Đai Nam thực lục chính biên-tập XXXVII-NXB Khoa học xã hội-Hà Nội-1977-trang 147-148).
Xét về mặt phẩm cấp, chức danh Trực học sĩ của Paul Bert cũng chỉ vào hàng chánh tam phẩm, trong khi theo qui định, chỉ riêng viên Khâm sứ Huế (địa vị nhỏ hơn Tổng Trú sứ Bắc và Trung kỳ) đã xếp ngang Thượng thư, trật Chánh nhị phẩm rồi. Còn chức danh của Trương Vĩnh Ký cũng chỉ ở vào hàng tòng tứ phẩm. Sau khi để Trương Vĩnh Ký ở lại Huế, Paul Bert ra Bắc và chính thức nhậm chức vào ngày 12.4.1886.

Điều mà chúng ta cần tìm hiểu là nhà học giả họ Trương đã nhận những nhiệm vụ gì của Paul Bert trong thời gian ở Huế. Trước tiên có thể khẳng định rằng cho dù chỉ là một quan lại hạng trung, nhưng với tư cách một người thừa ủy nhiệm của Tổng trú sứ Pháp, Trương Vĩnh Ký được vua Đồng Khánh đối xử hậu hơn nhiều so với những bạn đồng liêu cùng cấp. Trong thời gian ở Huế, vị học giả Việt vẫn thường xuyên trao đổi thư từ với Paul Bert.
Nội dung bức thư đề ngày 17.6.1886 của Trương Vĩnh Ký hé lộ đôi điều về những việc Paul Bert muốn ông thực hiện. Thư có đoạn viết: “Hiện nay tôi đã đỡ (bệnh) rồi, tôi ở lại đây; tôi sẽ nghiên cứu người và việc, làm thế nào để khi nhà vua trở về, chúng ta có thể bước vào giai đoạn tổ chức và thực hiện những chuyển đổi cần thiết, với một nhân sự xứng tầm với nhiệm vụ. Tôi sẽ loại bỏ tất cả những kẻ được sủng ái và sẽ giúp nhà vua, sắp xếp Viện Cơ mật với những người thực sự có năng lực….
Tái bút: Nhà vua đã đi sáng nay. Các ông Touté và Halais đến trễ vài giờ, sẽ cùng với ông Pène đi gặp nhà vua vào tối nay, lúc trăng lên….” (Jean Bouchot-Sđd-trang 61-62).

Rõ ràng là một trong những việc quan trọng mà Paul Bert muốn Trương Vĩnh Ký giúp ông ta thực hiện là cải tổ sâu rộng thành phần nhân sự của triều đình Huế. Việc này thành hay bại và ảnh hưởng ra sao, sẽ đề cập đến ở phần cuối bài này. Tuy nhiên, qua nội dung bức thư có thể thấy là vua Đồng Khánh đã rời kinh đô đi Quảng Bình ngày 17.6.1886, đúng vào ngày 16 tháng 5 âm lịch như bộ Quốc triều chánh biên đã ghi (Sđd-trang 422) để kêu gọi vua Hàm Nghi quay về và các tổ chức nghĩa quân giải thể.
Điều cũng khá rõ là trong lúc nhà vua xuất hành thì Trương Vĩnh Ký ở lại triều nội.
Ngày 29.6.1886, Paul Bert viết cho Trương Vĩnh Ký một lá thư thật dài kể lể về chuyện đạo Thiên chúa tại Việt Nam, đồng thời cũng dành một đoạn để biện minh cho chủ nghĩa thực dân và trong phần cuối, đã nhờ vị học giả “phủ dụ” giới nho sĩ Cần vương đừng chống lại “nhà nước Đại Pháp” :  “Để tóm tắt lá thư thật dài này, tôi muốn nhờ ông làm cho những bằng hữu theo Nho học, những nho sĩ tài năng của Việt Nam biết rằng trong việc thi hành hòa ước, họ không phải sợ mất đi phẩm cách, tự do, quyền lợi. Thay vì chạy vào rừng kích động những nông dân nghèo tự giết nhau và phá hoại, họ nên hợp tác với tôi vì sự thịnh vượng của xứ sở họ”. (J. Bouchot Sđd-trang 67).
Như vậy, Paul Bert cũng muốn Trương Vĩnh Ký phủ dụ các nhân sĩ yêu nước đang theo phong trào Cần vương kháng Pháp. Ngày hôm sau, 30.6.1886, ông ta lại gửi tiếp cụ Trương một lá thư ngắn nêu rõ: “Tôi buộc lòng phải nhờ ông đặc biệt chăm sóc việc học cho Ngự đệ (không rõ là ai –LN). Tuyệt đối phải dạy ông ta học chữ Pháp. À, phải chi ông có thể khuyên nhà vua cũng làm như thế (học tiếng Pháp – LN). Liệu ông có thể nói trực tiếp với Ngài được không…” (J. Bouchot-Sđd-trang 67).

Như vậy, có thể tóm lược sứ mạng được Paul Bert giao cho Trương Vĩnh Ký có ít nhất ba điểm quan trọng:
- Cải tổ bộ máy nhân sự của triều đình Huế, có lẽ theo thâm ý của Paul Bert là đưa những kẻ chủ hòa lên thay những quan lại “chủ chiến”.
- Chiêu dụ giới nhân sĩ đang hoạt động trong phong trào Cần vương.
- Dạy cho vua Đồng Khánh và em trai học chữ Pháp.

Trong lúc tại Huế, Trương Vĩnh Ký thu phục được cảm tình của vua Đồng Khánh thì ở Hà Nội, Paul Bert cũng cải tổ sâu rộng bộ máy thuộc địa, đặt ở mỗi tỉnh một tòa trú sứ. Sự làm việc năng nổ tác hại lên sức khỏe ông ta. Trong một chuyến đi vượt đèo Hải Vân cùng với viên Chánh văn phòng là Klobukowski (sau này làm Toàn quyền Đông Dương –1908-1910) và vài người khác nữa, ông ta đã bắt đầu mang mầm bệnh sốt rét.
Trở về Hà Nội, ông ta vẫn lao vào công việc: đi thăm chùa Quảng Đông, nhận lời mời của quan Kinh lược, cùng nhiều việc khác nữa. Bác sĩ Grall (sau này được lấy tên đặt cho một bệnh viện ở Sài Gòn, nay là bệnh viện Nhi đồng 2) nhiều lần khuyên ông ta phải giữ gìn sưc khỏe, nhưng xem ra lời khuyên này không có mấy tác dụng. Hai ngày sau khi đến nhà Kinh lược sứ Nguyễn Hữu Độ, Paul Bert lại đi Kẻ Sở, sau đó về Nam Định, chủ trì kỳ thi Hương. Lần này bệnh trở nặng khiến ông ta phải tức tốc quay lại Hà Nội, ra lệnh cho Klobukowski gửi điện tín về Pháp, yêu cầu Bộ thuộc địa cử người kế nhiệm.

Ngày 11.11.1886, Paul Bert thở hơi cuối cùng, có người thân đứng vây quanh. Ông ta chỉ làm Tổng Trú sứ hơn 6 tháng, nhưng những gì ông ta làm được đã khiến cho nhiều người nhớ tới. Tên ông ta được dùng đặt cho nhiều con đường ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn… 

Trước ngày Paul Bert tạ thế, Trương Vĩnh Ký đang nghỉ phép tại Sài Gòn, ngày 4.11.1886 còn gửi cho viên Tổng Trú sứ một lá thư. Trước đó khá lâu, ngày 27.9.1886, ông gửi cho vua Đồng Khánh một thư bày tỏ tình cảm và không quên nhắc nhà vua “học chữ Đại Pháp”…Tiếng là về Sài Gòn để lo việc gia đình và dưỡng bệnh, kỳ thực thông qua thư từ, Trương Vĩnh Ký để lộ tâm trạng bất an trước thái độ của người chung quanh khi ông còn ở cạnh vua Đồng Khánh. Điều này được Khổng Xuân Thu, tác giả quyển Trương Vĩnh Ký 1837-1898 (NXB Tân Việt – Sài Gòn –1958) phát hiện khi sưu tầm tư liệu tại Tổng thư viện Pháp, trong đó có tài liệu của bác sĩ Léon Gautier, bạn thân của văn hào Victor Hugo, viết về Trương Vĩnh Ký. Tài liệu này có đoạn đáng chú ý sau: “Những năm về sau, tiên sinh trao đổi thư từ với các nhà văn hóa Pháp càng thưa thớt dần, và chỉ toàn những lời bi quan, yếm thế, hay nói cho đúng hơn, chỉ là những lời thanh minh, bày tỏ ẩn khuất, bất mãn của mình mà thôi. Theo như dư luận của các nhà cầm quyền cho hay thì trong giai đoạn sau này, Trương tiên sinh gặp nhiều trở ngại về đường chính trị của mình. Có nhiều người dèm pha, muốn tranh giành địa vị của tiên sinh (khi được sung vào Cơ Mật vụ giúp cho nhà vua An Nam – đây có ý nói vua Đồng Khánh đã hết sức sức tin dùng Trương Vĩnh Ký). Hoặc giả cũng có kẻ cho rằng Trương tiên sinh không trung thành với nước nhà….” (Khổng Xuân Thu – Sđd-trang 139).

Quả thật, có thể mấy tháng cộng tác với Paul Bert và hiện diện ở Huế đã gây ra trong lòng vị học giả một cú sốc. Vì thế, cho dù vua Đồng Khánh hết mực ưu ái, ban cho ông một bức thư dài (sau được con ông là Trương Vĩnh Tống dịch ra thành 234 câu thơ), sau khi Paul Bert qua đời, ông cố tình ở lại Sài Gòn, không ra Huế nữa, tiếp tục nghề dạy học cũ.

Theo Bouchot, từ năm 1890, Trương Vĩnh Ký gần như nghỉ hẳn công việc chính quyền, chuyên tâm nghiên cứu, viết sách, ông dịch quyển tự điển Littré, tác giả là một người quen biết cũ, đến chữ cheval thì qua đời (1.9.1898). Bài Tuyệt mệnh thi của ông nói lên nỗi trăn trở của nhà học giả trong những năm cuối đời, sau những đóng góp to lớn cho nền học quốc ngữ, đồng thời trong mối quan hệ với thực dân Pháp, tiêu biểu là trường hợp Paul Bert kể trên. Đọc hai câu cuối trong bài thơ tuyệt mệnh của tiên sinh, lòng người đọc không khỏi ngậm ngùi:

Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Tìm nơi thẩm phán để thừa khai



**************************

-Chú thích: (*) Xin nhấn mạnh là Trương Vĩnh Ký (cùng Tôn Thọ Tường) đi Pháp với tư cách một viên chức trong bộ máy thuộc địa của Pháp tháp tùng sứ bộ Phan Thanh Giản chứ không phải là nhân viên cơ hữu của sứ bộ như nhiều tác giả đã lầm tưởng.

LÊ NGUYỄN
24.11.2013
........../.