Bìa báo Xuân Canh Tý 1960




(NGUỒN SƯU TẦM: THƯ VIỆN ÐẠI HỌC CORNELL, HOA KỲ)

https://sites.google.com/site/vuoncva5461/suu-tam/tailieuailatacgiabuctranhtrenbiabaotudoxuancanhty1960




______________
Phạm Phú Minh



Ai đã sống ở miền Nam Việt Nam, đặc biệt là Sài Gòn, vào năm 1960 thì có thể ít nhiều biết câu chuyện này. Tranh bìa số Xuân của báo Tự Do năm Canh Tý 1960 vẽ 5 con chuột đang ăn quả dưa hấu: một bìa báo bình thường, chủ đề bức họa là chỉ về con giáp của năm mới, một thói quen của làng báo lúc bấy giờ. Báo phát hành từ giữa Tháng Chạp âm lịch năm trước, mọi người mua, đọc, biếu bạn bè... như vẫn làm trong sinh hoạt đón Xuân. Nhưng đến mồng 5 Tết thì đột nhiên tòa báo Tự Do bị cảnh sát xông vào đập phá, tịch thu hết các số báo Xuân còn lại, cả số đã phát hành mà chưa bán cũng có lệnh thu hồi. Tại sao có chuyện như vậy? Vì có người diễn dịch ý nghĩa bức tranh đó là ám chỉ năm anh em của nhà họ Ngô đang đục khoét đất nước Việt Nam, và nếu lật ngược bức tranh lại thì theo đường viền vàng của vỏ trái dưa có thể thấy mường tượng hình thù nước Việt Nam, hoặc có thể một nửa nước phía nam, tùy người suy đoán. Người ta nói năm con chuột đó là tượng trưng cho năm anh em nhà Ngô Ðình đang trực tiếp cầm nắm vận mệnh miền Nam: Ngô Ðình Thục, Ngô Ðình Diệm, Ngô Ðình Nhu cùng vợ Trần Lệ Xuân, và Ngô Ðình Cẩn. Có người thì cho chỉ năm anh em họ Ngô thôi, không có bà Nhu, và người thứ năm là ông Ngô Ðình Luyện, nhưng thời gian đó ông Luyện làm việc tại nhiệm sở ngoại quốc.









Nhưng tất cả chỉ là suy luận, ức đoán. Chẳng có bằng chứng nào có thể đoan chắc bức tranh vẽ toàn chuột đó là ám chỉ các anh em trong một gia đình. Trừ một việc: chính các anh em đang cầm quyền đó đã phản ứng một cách giận dữ. Tức là họ tự nhận năm con chuột đó đúng là tượng trưng cho chính họ. Chính hành vi cho thuộc hạ đập phá tòa soạn báo Tự Do, tịch thu báo, và truy tìm tác giả bức tranh đã xác nhận cái ám chỉ mà dân chúng nghi ngờ đó là đúng.


Nhưng ở đây chúng ta không bàn luận về chuyện chính trị cách đây đã hơn nửa thế kỷ, như giải thích tại sao giữa thời thịnh trị của chế độ đệ nhất Cộng Hòa lại xuất hiện một đả kích táo tợn và dữ dội đến thế. Chúng ta chỉ đang tìm kiếm tác giả của bức tranh. Có hai người được nhắc đến: họa sĩ Phạm Tăng và họa sĩ Nguyễn Gia Trí.  




Hai họa sĩ Phạm Tăng và Nguyễn Gia Trí là bạn thân với nhau. Khi tờ báo Tự Do ra đời tại Sài Gòn sau năm 1954, Phạm Tăng có chân trong ban biên tập, chuyên vẽ hí họa cho báo. Tờ Tự Do do ông Phạm Việt Tuyền làm chủ nhiệm, không phải là một tờ báo đối lập với chính quyền, nhưng bài vở trí thức, khách quan, lại có những người cộng tác không ưa chính quyền Ngô Ðình Diệm như Như Phong Lê Văn Tiến, Hiếu Chân (tức Nguyễn Hoạt), thường hay có những bài phê phán hoặc châm biếm ám chỉ chính quyền. Riêng họa sĩ Phạm Tăng, qua lần điện đàm với người viết bài này vào tháng 01 năm 2012, cho biết đã bị bắt vào năm 1958 cùng với Hiếu Chân và Mặc Thu nhưng không bị ra tòa như hai vị này, mà được thả sau ba tuần bị nhốt ở bót Catinat. Sau đó họa sĩ Phạm Tăng xin đi du học tại Ý, và lên đường sang Ý vào năm 1959. Họa sĩ Phạm Tăng còn cho biết những hí họa trên báo Tự Do hầu hết là do ông vẽ, nhưng thỉnh thoảng họa sĩ Nguyễn Gia Trí cũng có đóng góp vài bức nhưng không bao giờ ký tên. Sau khi đi Ý, vì xa xôi và bận việc học, ông không còn cộng tác với báo Tự Do nữa, nhưng vẫn liên lạc thư từ rất thường xuyên với người bạn Nguyễn Gia Trí. Báo Thế Kỷ 21 Xuân Ất Dậu 2005 xuất bản tại Quận Cam California có đăng bản chụp bức thư của Nguyễn Gia Trí viết từ Sài Gòn gửi sang Ý cho Phạm Tăng đề ngày 24 tháng 1 năm 1960, và cho biết thêm hai người bạn tiếp tục trao đổi thư từ với nhau cho đến tháng 8 năm 1974.

Khi vụ bức tranh chuột trên báo Tự Do xuân Canh Tý 1960 bùng nổ, nhiều người nghĩ Phạm Tăng là tác giả bức tranh, mặc dù thời điểm này Phạm Tăng đang ở Ý. Sự gán ghép này chúng tôi nghĩ là tiện lợi cho tình thế lúc bấy giờ, rất có thể do chính tòa soạn báo Tự Do khai với chính quyền đồng thời tung ra dư luận, rằng Phạm Tăng đã vẽ, để tránh cho sự bắt bớ tác giả thật, là họa sĩ Nguyễn Gia Trí, đang sống tại Sài Gòn. Mà quả vậy, thời gian ấy họa sĩ Nguyễn Gia Trí vẫn sống bình thường tại nhà, không trốn tránh hay bị bắt bớ gì cả.




 
Hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí

Thế thì có gì chứng minh bức tranh chuột ấy là do Nguyễn Gia Trí vẽ?
Thứ nhất là những dòng sau đây của nhà văn Nguyễn Tường Thiết, trích từ bài Sự Thật Về Cái Chết Nhất Linh đăng trên nhật báo Người Việt (Quận Cam, California) và Người Việt Online vào đầu năm 2012:
“Vào năm 1960 trên bìa báo Tự Do Xuân Canh Tý xuất hiện bức tranh năm con chuột đang đục khoét một quả dưa đỏ và nếu lật ngược cái bìa thì quả dưa đỏ là hình bản đồ nước Việt Nam, hàm ý các anh em của gia đình họ Ngô đang phá hoại đất nước. Tờ báo bị chính quyền tịch thu sau khi báo đã phát hành được một số khá lớn. Không một ai biết tác giả bức tranh là ai. Người ta đoán mò họa sĩ Phạm Tăng là tác giả. Nhưng cha tôi cho chúng tôi biết tác giả là một người rất thân cận với ông: họa sĩ Nguyễn Gia Trí”.
Nguyễn Gia Trí gắn bó với Nhất Linh từ thời khởi sự làm báo Phong Hóa đầu thập niên 1930, rồi cùng hoạt động chống Pháp và bị Pháp bắt cùng Hoàng Ðạo, Khái Hưng vào năm 1942. Ông là người cứng cỏi, bị tra tấn rất nhiều. Ðầu thập niên 1950 ông bị Pháp chỉ định cư trú tại Thủ Dầu Một, cũng thời gian này Nhất Linh từ Trung Hoa về Hà Nội rồi vào Nam, hai người đồng chí cùng trong Việt Quốc chống Pháp một thời, nay lại gặp nhau. Nhất Linh lập nhà xuất bản Phượng Giang và Nguyễn Gia Trí phụ trách vẽ bìa các sách Nhất Linh xuất bản. Ðến thời đệ nhất Cộng hòa, cả hai ông đều bất mãn với chế độ gia đình trị của ông Ngô Ðình Diệm, và sự kiện Nhất Linh biết rõ Nguyễn Gia Trí vẽ bức tranh chống đối này là việc dễ hiểu.
Ngày nay nhìn lại vụ bức tranh này, phải nhận đây là một sự kiện rất quan trọng, như một quả bom tấn nổ bùng khơi ngòi cho một loạt hoạt động chống đối chế độ trong những năm tiếp theo, với sự bất mãn của dân chúng ngày một tăng. Phải là người gan góc, đầy bản lãnh và tài năng mới thực hiện được một hình thức chống đối chế độ ngoạn mục như vậy: một bức tranh rất nghệ thuật nhưng hiền lành như một tranh dân gian đón mừng năm mới, in trên bìa số Xuân của một tờ nhật báo uy tín nhất nước, chỉ trong một thời gian ngắn là đến tay bạn đọc khắp nước, lại ẩn chứa một nội dung tố cáo tính cách không lành mạnh của một chế độ chính trị (mang cả gia đình nhà mình ra mà nắm vận mệnh đất nước). Giữa khung cảnh của một chế độ độc tài, đó là cách làm của một bàn tay từng trải với hoạt động cách mạng, cộng với tâm hồn của một nghệ sĩ lớn, không mấy ai đủ đởm lược và tầm vóc để thực hiện, như Nguyễn Gia Trí đã làm. Sự kiện Nhất Linh, người mà Nguyễn Gia Trí gắn bó mật thiết thời ấy, cho con cái trong gia đình ông biết ai là tác giả bức tranh ngay trong thời điểm nó xuất hiện là một xác định chắc chắn, hoàn toàn khả tín.
Thứ hai, chính họa sĩ Phạm Tăng đã khẳng định với nhà nghiên cứu Thụy Khuê vào đầu năm 2012 rằng, chính Nguyễn Gia Trí là tác giả bức tranh ấy. Vào đúng ngày Tết Nhâm Thìn (tháng 1, 2012) người viết bài này sau một thời gian tìm kiếm, đã có được phóng ảnh bìa số báo Xuân Tự Do Canh Tý 1960 lưu trữ tại thư viện Ðại Học Cornell; và vì muốn biết rõ một cách dứt khoát ai là người vẽ bức tranh chuột này, chúng tôi đã nhờ nhà nghiên cứu Thụy Khuê bên Pháp liên lạc với họa sĩ Phạm Tăng để hỏi, và đã nhận được câu trả lời rõ rệt như trên.
Ngoài ra chúng tôi cũng đã liên lạc và chuyện trò nhiều lần với:
- Bác Sĩ Nguyễn Gia Tiến (hiện ở Thụy Sĩ) cháu gọi họa sĩ Nguyễn Gia Trí bằng chú ruột, thời 1960 là sinh viên Y khoa, vẫn lui tới nhà ông chú hằng ngày,
- Nhiếp ảnh gia Nguyễn Tất Ðạt (ở Nam California), con của họa sĩ Le Mur Nguyễn Cát Tường, thời 1960 ở ngay trong nhà họa sĩ Nguyễn Gia Trí.
Thì cả hai đều xác nhận với chúng tôi rằng, thời ấy trong vòng gia đình, ai cũng biết chính họa sĩ Nguyễn Gia Trí vẽ bức tranh ấy.




Dọc mùng (tên gọi chính xác là Phong cảnh) là bức tranh sơn mài khổ lớn trình bày theo kiểu bình phong của họa sĩ Nguyễn Gia Trí. Bức tranh thực chất gồm hai mặt, mặt trước là tranh Phong cảnh còn mặt sau là tranh Thiếu nữ trong vườn. Bức tranh được giới chuyên môn cũng như giới sưu tập đánh giá là Bức tranh sơn mài đẹp nhất Việt Nam. Hiện nay, bức tranh được đặt trang trọng tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.


Nguyễn Gia Trí là họa sĩ lớn của Việt Nam. Ông cũng là một chiến sĩ cách mạng gan lì và kiên cường. Những phẩm chất ấy hun đúc nơi ông một nhân cách lớn. Trong sự nghiệp hội họa của ông, các nhà nghiên cứu ít khi nhắc tới bức tranh chuột này, nếu có thì chỉ như dấu vết một hành động chính trị hơn là nghệ thuật. Nhưng chính bức tranh ấy đã có một vai trò đặc biệt trong lịch sử chính trị cũng như báo chí Việt Nam, mà vì hoàn cảnh xuất hiện đã tạo nên một sự lẫn lộn về tác giả. Tất cả sự sưu tầm, hỏi chuyện và gom góp tài liệu của chúng tôi chỉ nhằm một mục đích làm sáng tỏ ai là tác giả đích thực của bức tranh ấy.

Và đến đây, câu trả lời đã có thể khẳng định: đó là họa sĩ Nguyễn Gia Trí.


Phạm Phú Minh
........../.


ĐI TÙ CHỈ VÌ YÊU “NHẠC VÀNG”







https://www.facebook.com/phuyen.nguyen.311/posts/176763236016071


ĐI TÙ CHỈ VÌ YÊU “NHẠC VÀNG”


Dĩ nhiên chuyện xảy ra đã lâu và chỉ có ở miền Bắc. Một vụ án văn nghệ khiến ta phải rơi nước mắt, tiếp sau vụ Nhân Văn - Giai Phẩm. Ngày 27-3-1968 nhóm nhạc của ông Lộc Vàng ở Hà Nội bị bắt.
Vụ án “Phan Thắng Toán và đồng bọn về tội tuyên truyền văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa đế quốc” đưa ra xét xử vào tháng 1-1971. Các bị cáo của vụ án bị cáo buộc đã tụ tập “thành một ban nhạc nghiệp dư tụ tập chơi nhạc vàng. Khi đi biểu diễn nhạc kiếm tiền ở những đám cưới, các cuộc liên hoan, chúng tìm cách đánh xen kẽ những bản nhạc vàng để truyền bá và thăm dò thị hiếu của lứa tuổi thanh niên. Chúng phân chia nhau đi tìm mua đĩa hát loại nhạc vàng lọt vào được, đi sưu tầm các bài hát và nhạc vàng cổ, ghi chép các bản nhạc giật, nhạc tâm lý chiến của đài Mỹ và đài Sài Gòn. Chúng dùng các bản nhạc này để luyện cho nhau những giọng hát, tiếng đàn thật là bi quan, sầu thảm, lả lướt, lãng mạn để đi truyền bá, lôi kéo thanh niên… Phiên tòa đã diễn ra 3 ngày để xét xử bọn “gây ảnh hưởng xấu cho phong trào trật tự trị an, phá hoại việc thực hiện một số chính sách của Nhà nước, nhất là chính sách văn hóa, chính sách lao động sản xuất, chính sách nghĩa vụ quân sự, xâm phạm nghiêm trọng đến hạnh phúc, phẩm giá của phụ nữ, đến đạo đức và đời sống của nhiều người và tuyên truyền xuyên tạc lại chế độ XHCN trong lúc cả nước đang chiến đấu chống Mỹ xâm lược…” (trích bài báo “Phan Thắng Toán và đồng bọn đã bị xét xử”, báo Hà Nội Mới, ngày 12-1-1971).

Kết quả vụ xét xử, ông Phan Thắng Toán bị tuyên án 15 năm tù giam và sau đó 5 năm bị tước quyền công dân, ông Nguyễn Văn Ðắc bị 12 năm tù giam và 5 năm bị tước quyền công dân, ông Nguyễn Văn Lộc (Lộc Vàng) bị 10 năm tù giam và 4 năm bị tước quyền công dân.
Dưới đây xin trích vài câu hỏi và đáp của tòa với các “bị cáo” do nhạc sĩ Tô Hải, người đã tham dự phiên tòa năm đó, thuật lại:
Chánh án: - Anh có nhận là đã đánh nhạc của tư sản, là đồi trụy không?
Toán xồm: - Dạ! Thưa quý tòa, con chỉ đánh những gì in trên đĩa của Liên Xô, của Tiệp Khắc, của Cộng Hòa Dân Chủ Ðức thôi ạ!
Chánh án: - Anh nói láo! Thế Paloma, Santa Lucia là của ai?
Toán xồm: - Dạ! Paloma là của nước bạn Cuba ạ! Còn Santa Lucia là dân ca Ý ạ! Nhà xuất bản của nhà nước đã in và sân khấu nhà nước đã có nhiều ca sĩ biểu diễn ạ!
Chánh án: - Vậy anh có biết cha cha cha là cái gì không?
Toán xồm: - Dạ! Có ạ! Ðây là một nhịp điệu xuất xứ cũng tại nước bạn Cuba ạ!
Chánh án: - Thế còn Tango Bleu chắc anh cũng đổ cho Cuba hết hả?
Toán xồm: - Dạ không! Tango là một điệu nhảy Ácgiăngtin nhưng đã được quốc tế hóa. Vừa rồi Ðoàn xiếc Tiệp Khắc sang ta và các nước XHCN đều sử dụng cả ạ!
Chánh án: - Nhưng người ta đánh khác, còn anh đánh khác. Ðừng có ngụy biện!
Toán xồm: - Ðánh y hệt ạ! Chỉ có thua họ về nhạc cụ họ tốt hơn… chứ nếu chúng con có đầy đủ nhạc cụ như họ thì chúng con chẳng thua gì họ cả ạ!
Chánh án: - Anh hãy im miệng! Ðồ ngoan cố!
Và cứ như vậy, suốt phiên tòa chánh án chỉ sử dụng câu “Im miệng! Ðồ ngoan cố” để cắt lời người bị buộc tội. Không hề có ai bào chữa.
Ông Lộc Vàng kể: “Chúng tôi gặp gỡ, hát với nhau nghe thôi chứ cũng chẳng phản đối chính sách nhà nước gì cả. Chúng tôi chỉ thấy dòng nhạc này hay quá, trữ tình và đầy tình người nên muốn lưu giữ lại và đóng cửa hát cho nhau nghe. Người này đồn người kia. Công an bắt bọn tôi và nói rằng vì chúng tôi thích những bài nhạc ấy nên chúng tôi phá hoại nền văn hóa CNXH và tuyên tuyền văn hóa trụy lạc của chủ nghĩa đế quốc. Và họ đã xét xử bọn tôi. Sau khi ra tù, nhà cửa anh Toán cũng tan nát, anh chán đời và tìm vui bên men rượu. Anh lang thang trên đường phố sống vào tình thương của người qua lại. Ðêm 30 tháng 4 năm 1994, người ta nhìn thấy anh Toán nằm gục chết, đói lả, cô đơn trên hè phố… Còn ông Nguyễn Văn Ðắc mất năm 2005. Nghĩ đến cuộc đời của mình sao mà cay đắng, chua chát quá. Mình có làm cái gì đâu, chỉ yêu thích âm nhạc thôi mà bị tù đày. Sau khi dòng nhạc này được khôi phục, những bản nhạc này được hát lên tivi. Khi nghe người ta hát mà mình ngồi ứa nước mắt ra”.
Ông Lộc Vàng tên thật là Nguyễn Văn Lộc, sinh năm 1945, là một trong những người mê nhạc vàng nổi tiếng tại Hà Nội. Trước năm 1954, đâu đâu cũng nghe người ta hát nhạc vàng. Đó là những bài nhạc, theo ý chính quyền đương thời, hàm ý màu vàng bệnh hoạn, bi quan, hoặc khêu gợi tình dục và những khát vọng thấp hèn. Nhưng đó chính là dòng nhạc lãng mạn, cũng được gọi là nhạc tiền chiến đã đi vào lịch sử. Cùng với phong trào bài trừ “hoàng sắc âm nhạc” của Mao Trạch Ðông tại TQ, thời gian đó tại VN xuất hiện nhiều bài báo chống lại những giai điệu được cho là ủy mị và thiếu tinh thần đấu tranh cách mạng. (Hồi đó vì vẻ đẹp sang trọng và đáng quý nên người ta so sánh nó quý như vàng, chứ không phải nhạc vàng hiểu theo nghĩa của chính quyền). Dòng nhạc này ngấm vào ông Lộc từ khi nào không biết. Cũng vì trót yêu, trót thèm được phiêu du cùng cảm xúc thật của mình mà bất chấp lệnh cấm, ông Lộc cùng một nhóm bạn, trong đó có ông Phan Thắng Toán (Toán xồm) và Nguyễn Văn Ðắc thường xuyên tụ họp tại nhà, cùng hát với nhau những bài hát của Văn Cao, Ðoàn Chuẩn - Từ Linh, Ðặng Thế Phong… và sau 1975 của Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng...
Về phần ông Nguyễn Văn Lộc, sau khi ra tù ông cũng đã sống một cuộc đời bôn ba, nghèo khổ. Sau khi người vợ qua đời, năm 1990 ông Lộc mở quán cà phê nhạc, chỉ để có chỗ cho ông thỏa niềm đam mê, vì thế tài sản của ông cứ dần “đội nón ra đi” để bù đắp vào sự thua lỗ của quán: “Lỗ nhiều tôi bán nhà to mua nhà nhỏ, từ nội thành bay ra ngoại thành. Khi chưa mở quán tôi có ngôi nhà 50 m2 ở phố Kim Mã, sau bốn năm tôi chỉ còn 50 m2 đất, ở tít Cầu Diễn”.
Bây giờ, ông sống luôn ở quán. Bà vợ ông đã mất hơn 10 năm nay nhưng mỗi khi hát trên sân khấu ông lại khóc. “Tôi chỉ ước vợ tôi sống lại, ở bên cạnh tôi, nghe tôi hát. Ngày xưa, tôi đi hát vợ tôi bế thằng lớn theo sau. Mấy ông bạn bảo: Trời rét, để con ở nhà mang con theo làm gì? Vợ tôi trả lời: Em không đi nghe hát đâu mà để nếu chồng em có bị bắt lần nữa, em còn biết đường đi tiếp tế”. Bà ra đi để lại cho ông hai người con và một tình yêu chưa bao giờ nguôi ngoai: “Tôi biết cô ấy từ năm 17 tuổi, chơi thân với nhau, rồi yêu nhau sau đó. Ngoài 20 tuổi tôi phải vào tù, 31 tuổi ra tù, thiên hạ dị nghị, kinh sợ tôi hơn một gã tù lưu manh, chỉ có cô ấy không ngại, vẫn yêu, vẫn thương tôi”. Vì người mình yêu, bà bỏ nghề ca sĩ làm nghề bán đậu phụ ngoài vỉa hè. Suốt quãng đời bên nhau chưa một lần vợ Lộc Vàng trách cứ ông về tình yêu với dòng nhạc mang đến nhiều hệ lụy.
Ngày nay, góc quán nhỏ số 17A của nghệ sĩ Lộc Vàng với những mái lá và bàn tre nằm khiêm tốn trên con đường mới ven Hồ Tây vẫn vang lên tiếng hát. Tiếng hát mà ông đã đánh đổi cả cuộc đời mình để giữ gìn, nâng niu. Khách vào quán sẽ bắt gặp một bức ảnh một người mặc áo sơmi trắng ngồi châm thuốc cho một người hành khất. Người mặc áo sơmi trắng là ông Lộc và người hành khất không ai khác chính là ông Toán (ảnh dưới, chụp ngày 23-4-1994 trước khi ông mất đúng một tuần). Có lẽ ít ai hát “Gửi Người Em Gái Miền Nam” của Ðoàn Chuẩn - Từ Linh hay như ông Lộc Vàng. Nhiều đoạn ông hát khác nhiều so với lời với bài hát hiện tại. Nghe ông Lộc Vàng hát mà như nghe ông độc tả chính ông và những người bạn đã có lúc phải bước đi nhưng không dám ngước nhìn: “Mỗi khi hát, tôi đều hồi tưởng đến những kỷ niệm đã từng có với những người bạn thân và vợ. Khi đứng lên sân khấu đôi khi không hát hết được cả bài vì nước mắt cứ tuôn ra”.




Ngày nay, mỗi đêm được thỏa thuê hát những khúc nhạc tiền chiến, đối với ông là một sự an ủi lớn lao của cuộc đời. Ông hát say mê và nồng nàn, như để ném mạnh vào quá khứ những ngày ông và bạn bè bị coi là “phản động”, những ngày ông và bạn bè sống lê lết, “cúi mặt mà đi”. Và những ngày vợ ông từ một ca sĩ phải đi bán bún đậu trên hè phố chỉ vì liên quan đến “phản động”. Có lẽ được hát chỉ là mảng sáng duy nhất của số phận của những người trót gửi tình yêu cho những khúc hát tưởng như vô tội ấy. Ðêm nay, ông lại hát “Ðêm đông”, như một đêm nữa gửi những hương gió tình yêu đến những người bạn thời xa vắng.

(tổng hợp từ nhiều tài liệu)
.............../.


Bài học lịch sử “TIN BỢM MẤT BÒ”


Bài học lịch sử “TIN BỢM MẤT BÒ”
Hoàng Tuấn Phổ



http://tuancongthuphong.blogspot.com/2014/07/bai-hoc-lich-su-tin-bom-mat-bo.html


Tượng Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh
                                                Ảnh: Internet


Truyền thống Việt – Miên- Lào- Xiêm tình nghĩa láng giềng giáp mái kề hồi, sớm khuya tắt lửa tối đèn có nhau. Vua Gia Long, trước khi mất, căn dặn Hoàng Thái tử (Tức Minh Mạng): “Không được gây hấn ngoài biên”. (Đại Nam Thực lục). Năm 1823, Diến Điện sau mấy lần xâm lược Xiêm, bị nhà Nguyễn giúp Xiêm đánh thua, xin lập đồng minh Việt- Diến chống Xiêm, Minh Mạng từ chối. 

Nhà vua nói với triều thần: “Không nên bỏ tình hòa hiếu mà tìm sự cừu thù”. (Đại Nam thực lục). Dĩ nhiên, “Bát đũa còn có khi xô” quan hệ Việt – Xiêm không tránh khỏi có lúc bị sứt mẻ. Bản tính các vua Xiêm hay cậy mạnh, nhiều tham vọng, muốn thôn tính Miên (Căm puchia), thừa thắng xâm chiếm luôn vùng đất Gia Định (Nam bộ), để Lào hết chỗ dựa, dễ bề đô hộ. Ví dụ, năm 1833, quân Xiêm đánh chiếm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, tấn công cả miền đất phía tây Quảng Trị và xâm phạm biên giới Nghệ An, uy hiếp kinh đô Huế, khiến triều Nguyễn hết sức lo lắng. Phải mất mấy năm vất vả, quân Nguyễn mới đuổi được quân Xiêm ra ngoài bờ cõi, giữ gìn bình yên ba nước anh em Việt – Miên – Lào.  Đối với Xiêm, sau chiến tranh xâm lược, triều đình Nguyễn vẫn sẵn sàng bỏ qua lầm lỗi, lại quan hệ hoà hiếu với Xiêm.
Ngược dòng lịch sử, chính Nguyễn Ánh (sau là vua Gia Long), ông chúa cuối cùng của vương triều Nguyễn, bị quân Tây Sơn chiếm mất Gia Định, dồn đến chân tường, vẫn không dám quyết định cầu viện vua Xiêm vì không tin lắm người bạn láng giềng đầy tham vọng. Tuy nhiên, một sự kiện bất ngờ xảy ra đã đưa đẩy ông vào vòng xoáy lịch sử. Nguyên do, tướng Châu Văn Tiếp của Nguyễn Ánh bị thua trận, chạy thẳng sang Vọng Các (Băng Cốc) cầu cứu vua Xiêm. Vua Xiêm sai hai người cháu, tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem hai vạn quân đánh Gia Định mượn tiếng giúp Nguyễn Ánh để trả thù Tây Sơn vốn đã gây cho Xiêm mối bất bình từ trước. Hai tướng Xiêm thả cho quân sĩ cướp bóc, hãm hiếp dân lành, bị quân Tây Sơn đánh thua tan tác. Nguyễn Ánh thất vọng, tập hợp bề tôi của mình rút về đảo Thổ Chu. Theo lời đức cha Bá Đa Lộc (tức Pigneau) kể trong thư đề ngày 20 tháng 3 năn 1785: Nguyễn  Ánh than rằng người Xiêm lừa gạt ông, mượn cớ lập lại quyền bính cho ông mà cướp bóc dân chúng và bắt sống ông thôi! (Tạ Chí Đại Trường:Lịch sử nội chiến 1771- 1802- NXB Công an nhân dân, tr.143).
Dẫu sao, sai lầm của của Châu Văn Tiếp dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, Nguyễn Ánh là chủ soái vẫn phải chịu trách nhiệm.
Mạc thị gia phả, tập sử liệu của người đương thời sống trong cuộc (Vũ Thế Dinh ) chép rõ: “Chiêu tăng và Chiêu Sương thả quân cướp bóc tàn hại dân chúng. Vua (tức Nguyễn Ánh) ngăn cản không được, nhỏ nước mắt than: “Việc phục quốc cốt là lo cho nước cho dân, thế mà nay để cho bọn ấy thả sức làm điều bạo ngược, làm quốc chủ như ta làm gì, kẻo rồi giặc nguỵ (tức Tây Sơn-HTP) lại vin vào cớ đó vu cho ta rước giặc về tàn hại nhân dân. Ta không nỡ nhìn thấy cảnh đó!” Chư tướng xin từ nay không để mặc cho bọn chúng hoành hành tàn bạo nữa” (Mạc thị gia phả-NXB Thế giới). Sau đó, nhiều lần vua Xiêm muốn gửi quân sang giúp, Nguyễn Ánh đều không nhận. Chẳng hạn: Tháng 9 năm Quý Sửu (1793) vua Xiêm sai đại tướng Chất Trì đóng quân 5 vạn ở Nam Vang (Nông Pênh) gửi 500 chiến thuyền đậu biển Hà Tiên, đua thử hẹn giúp Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn nhưng ông từ chối khéo. Nguyễn Ánh nói với tướng sĩ: “Mượn người ngoài giúp, đưa họ vào trong nước mình, sợ di mối hại về sau”. (Đại Nam thực lực chính biên).
Nhưng, ở đời “không cái dại nào giống cái dại nào” ! Nguyễn Ánh thoát bàn tay vua Xiêm, lại rơi vào cạm bẫy Bá Đa Lộc!
Không biết đã có bao nhiêu độc giả hiểu lầm, bởi một giáo sư nổi tiếng hàng đầu ngành sử học, dùng ngòi bút đanh thép của mình kết tội các vua Nguyễn (trong đó có Gia Long Nguyễn Ánh) “bành trướng, xâm lược” và“chính sách xâm lược tai hại của triều đình nhà Nguyễn càng làm cho cuộc khủng hoảng trong nước thêm sâu sắc”. Ông tâng bốc Xiêm hết lời và mạt sát Nguyễn cũng cạn lời! (Trần Văn Giàu:Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn… - NXB Văn hoá, tr.100- 119). Sự thật, từ thời các chúa Nguyễn, hai nước Miên, Lào đã nhờ Nam hà “bảo hộ” để chống lại sự bành trướng của Xiêm. Và các chúa Nguyễn rồi tiếp theo là các vua Nguyễn đều hết lòng với Miên, Lào trong việc “bảo hộ”, vì “bảo hộ” bạn cũng tức là bảo vệ mình. “Bảo hộ” là gì ? Theo quan niệm các vua chúa nhà Nguyễn “bảo hộ” là giúp đỡ, bảo vệ, khác với “đô hộ” là thống trị, xem nước người ta như thuộc quốc, thuộc địa của nước mình. Chính sách bảo hộ của nhà Nguyễn khá minh bạch. Gia Long bảo triều thần: “Bảo hộ là cốt giữ cho nước ấy được còn, chứ không phải để giám sát, cai trị nước ấy. Vậy nên hạ lệnh cho bọn Thuỵ (Viên quan phụ trách bảo hộ Cao Miên) chớ nên can dự vào chính sự nước ấy, để cho phiên vương (vua nước nhỏ ở bên cạnh nước lớn) được tự làm việc thì lòng dân sẽ yên”. Một số triều thần muốn giải quyết dứt điểm vấn đề Cao Miên để đối phó dứt khoát với Xiêm, Gia Long nói: “Được một nước Chân Lạp (Cao Miên, Campuchia) để sự lo về sau, trẫm quyết không làm như thế” (Đại Nam thục lục). Đó là quan điểm đúng đắn mang tầm chính trị sáng suốt, sâu xa của ông vua giỏi.
Người ta hay nhắc đến hiệu ước Versailles như một chứng cớ không thể chối cãi để kết tội Nguyễn Ánh “cắt đất xin ngoại viện”, “rước voi dày mả tổ”…! Giáo sư Phan Huy Lê đầu ngành sử học Việt Nam, kết luận Hội thảo khoa học, cho rằng đó là “tì vết” của Gia Long Nguyễn Ánh. Ý kiến ông chỉ là cách nói khác của một quan điểm xưa cũ. (Hội thảo khoa học “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn…” 18-19/10/2008- NXB Thế giới ấn hành 2008)
Vậy thực chất hiệu ước Versailles là gì?
Trước khi Châu Văn  Tiếp bại trận, tự ý cầu cứu vua Xiêm, thời gian khoảng một năm, Nguyễn Ánh đã nghe theo lời bàn của Bá Đa Lộc quyết định việc cầu viện phương tây. Bá Đa Lộc là ai ? Bá Đa Lộc, một nhà truyền giáo (đạo Thiên Chúa) nổi tiếng Nam hà bấy giờ. Thông thường, người ta gọi ông là đức cha cả, được triều Nguyễn phong tước Bi Nhu quận công. Ông còn các tên Pháp: (Giám mục) D’Adran, (đức ông) Pigneau, Pierre Yoseph, Georges, Pingeau de Béhaine… Công việc truyền giáo gặp khó khăn tại Nam hà vì nội chiến Tây Sơn- Nguyễn Ánh, Bá Đa Lộc đang phải bôn ba ở Nam Vang được Mạc Thiên Tứ trấn thủ Hà Tiên thời chúa Nguyễn đưa đến gặp Nguyễn Ánh tại đảo Thổ Chu. Chính ở đây, đức cha cả, năm 1784, hứa giúp ông chúa mất nước cầu viện Đại Tây.
Nhiều giáo sĩ nước ngoài có mặt ở Việt Nam bấy giờ, qua các thư từ, giấy tờ đều ghi nhận: Không riêng Nguyễn Ánh mà cả Tây Sơn (Nguyễn Nhạc hay Nguyễn Huệ?) và chúa Trịnh đều muốn họ xin Tây dương giúp cho tàu to súng lớn, binh lính thiện nghệ để nhanh chóng tiêu diệt đối phương. Cả ba ông chúa nước Nam đều được các giáo sĩ đặt lên bàn cân, và cán cân nghiêng về Gia Định vì Nguyễn Ánh có vẻ đáng tin hơn, trong khi Bình Định cũng như Thăng Long đều đối xử tồi tệ với nhà thờ, thô bạo với cha cố.
Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh đi cầu viện từ cuối năm 1784 đến năm 1787 (ba năm sau mới đến nước Pháp). Nghĩa là Bá Đa Lộc bế Hoàng tử Cảnh cùng đoàn tuỳ tùng đang lênh đênh trên Ấn Độ dương, hai vạn quân Xiêm của Chiêu Tăng, Chiêu Sương vẫn còn đóng ở bên kia biên giới nước Việt. Bá Đa Lộc đến Pháp đầu năm 1787, phải chờ 10 tháng sau, ngày 28/11 Hiệp ước mới được ký kết, một bên là đại diện của Louis XVI, một bên Bá Đa Lộc được Nguyễn vương (Nguyễn Ánh) ủy nhiệm với tờ giấy viết từ năm, sáu năm trước ! Không có quốc thư (đáng lẽ nhất thiết phải có mới có giá trị pháp lý) chỉ có một “tín vật” làm tin, ấy là chú bé được mang tên Hoàng tử Cảnh, lúc ra đi tuổi lên 3, bây giờ lên 7. Pháp hứa giúp Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu, 1.200 bộ binh, 200 pháo binh, 250 lính Phi để đổi lấy cửa biển Hội An, sau thêm đảo Côn Lôn (Côn Đảo). Pháp được toàn quyền và độc quyền thương mại ở Nam hà (Văn Tân: Cách mạng Tây Sơn-NXB Văn sử địa-Hà Nội, 1958 và tài liệu khác)...
Nhưng Hiệp ước Versailles không thành, mà giống như một trò đùa ! Nhiều năm sau ký Hiệp ước, người Pháp còn chép miệng tiếc của vì đã bỏ mất món hàng béo bở ! Họ không biết chính bởi món hàng Hiệp ước Versailles quá hời, hời tới mức không thể tin. Toàn quyền De Conway được giao trách nhiệm thi hành Hiệp ước, vốn tính đa nghi càng thêm hoài nghi. Ông đã phái nhiều đoàn đến Nam hà (miền Nam) thám thính, tìm hiểu các cửa biển, các đảo lớn nhỏ và thực lực Nguyễn Ánh...Hẳn là tên cáo già bản tính hồ nghi này đã đánh hơi thấy nhượng địa quan trọng: Cửa biển Hội An dang thuộc quyền quản lý của Tây Sơn hùng mạnh, còn Côn Lôn chỉ là hoang đảo vô dụng giữa trùng khơi mịt mùng sóng gió, nơi ẩn náu của lũ cướp biển !
Tờ báo Gazette nationale ngày 14/6/1789 xuất bản tại Pondichery viết:“Không bao giờ tình hình dễ dàng cho việc lập lại quyền bính cho ông vua mất ngôi đã trở về chiếm 5 tỉnh phía Nam như bây giờ !” Đó là một nhận xét đầy mỉa mai được báo Gazette nationale phản ánh sự tiên đoán tương lai đen tối của Nguyễn Ánh dưới con mắt người Pháp. (Thời điểm này, Nguyễn Ánh bằng thực lực của mình chỉ mới chiếm lại được vùng đất Gia Định-Nam Bộ. Trong khi Tây Sơn hùng mạnh đang cai quản cả đất nước. Và sau khi đập tan 20 vạn quân Thanh, củng cố quyền lực, nếu Quang Trung không đột ngột qua đời, Nguyễn Ánh cũng khó bề có được vùng đất đứng chân dù nhỏ bé trên đất liền, nói chi đến 5 tỉnh phía Nam). Hiệp ước Versailles thất bại, De Conway coi là một trò đùa, Nguyễn Ánh cũng xem như tờ giấy lộn. Nhưng Bá Đa Lộc không thể đi không lại về không. Con đường truyền giáo của đức cha cả có thể phải chấm hết, nếu ông bị mất hoàn toàn lòng tin đối với Nguyễn Ánh. Ông tất tả chạy ngược, chạy xuôi mới quyên góp nổi tiền mua 1.000 khẩu súng trường, và mộ được 19 người gồm nhiều thành phần xã hội khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ hám lợi, ham danh ! Chính Bá Đa Lộc đã dụ dỗ họ, đưa họ đến miền đất hứa, làm quan và làm giàu ! Họ đến Gia Định tháng 7 năm 1789, thường ngày lo đánh chén hơn đánh giặc, và rốt cuộc đánh bài chuồn sau mấy năm “làm ăn” không “phát tài” ! Theo số liệu của các giáo sĩ bấy giờ đang ở Gia Định, trong quân đội của Nguyễn Ánh, đến năm 1800, người Tây cũng chỉ có khoảng hơn 40 người ! Như vậy, không có căn cứ, nếu nói Nguyễn Ánh dựa vào lực lượng Tây dương để đánh bại Tây Sơn. Sự thực, trong lúc Nguyễn Ánh đang lên thác xuống ghềnh ở Nam bộ, “con voi” Louis XVI đã già nua, lại đang sa lầy tại chính nước Pháp, Nguyễn Ánh làm sao “rước” nổi nó sang Nam Việt ?
Nguyên nhân thất bại của chính quyền Tây Sơn nằm trong nội bộ triều đình Nhà Tây Sơn. Năm 1792, vua Quang Trung mất, chỉ 10 năm sau, 1802, mấy anh em Quang Toản cùng tướng soái thân cận phải chịu trói ở nơi còn âm vang tiếng thét oai hùng của Nguyễn Huệ, làm vỡ mật 20 vạn quân Thanh xâm lược ! Quang Toản là một hôn quân làm hỏng sự nghiệp vĩ đại vua cha để lại, nhưng mầm tai vạ gây nên họa loạn trong hoàng thất và triều đình văn võ cũng do chính Quang Trung gieo trồng từ trước.
Khi nhà Tây Sơn sắp hết vai trò lịch sử, lịch sử tất phải chọn ai đó, không người này thì người khác, đứng ra dọn dẹp cơ đồ đổ nát để xây dựng trên nền tảng quốc gia nghìn năm văn vật một tòa lâu đài mới. Lịch sử cũng có thể chọn lầm ai đó, nhưng với Nguyễn Ánh là nhân vật xứng đáng nhất vì ông đã thành công nhất. Nếu chê Nguyễn Ánh, lịch sử sẽ chọn ai bấy giờ ? Điểm mặt các anh hùng, hào kiệt xuất hiện trong lúc bão táp nội chiến nổi lên khắp trong Nam ngoài Bắc, còn ai hơn Nguyễn Ánh hay bằng Nguyễn Ánh ? Thiết tưởng hậu thế không nên quá khắt khe hay khó tính đòi hỏi những gì lịch sử không thể có được, những gì Nguyễn Ánh không thể làm nổi. Hạn chế lịch sử từ Quang Trung đến Gia Long là không dám cởi bỏ sớm chiếc long bào thêu rồng ố vàng, cũ kỹ để thay bằng bộ “complet tân thời” mới toanh của văn minh tư sản ! Luẩn quẩn, tù túng trong cái lồng phong kiến đã trở nên quá chật hẹp, lạc hậu, Gia Long phải hết sức cố gắng để trụ vững, tạo cơ sở cho Minh Mạng phát triển, nhưng sang Thiệu Trị thì bắt đầu lung lay, và đến Tự Đức hoàn toàn chịu bất lực trước cơn giống tố phương Tây ập  tới !
Vua Tự Đức giao cho triều thần Phan Thanh Giản cắt đất giảng hòa. Nhưng đế quốc Pháp đang thèm khát thuộc địa, đâu đã no mồi sau khi nuốt trôi Sài Gòn, Gia Định ? Việt Nam mất, Campuchia, Lào cũng mất ! Triều đình Huế, phe chủ hòa do nhà vua đứng đầu đã quên bài học “Tin bợm mất bò” mà tổ phụ Nguyễn Ánh-Gia Long phải trả bằng xương máu ! Không thể nói như GS Phan Huy Lê đó là “tỳ vết” (vết xấu, vết nhơ), mặc dù sự thật thế nào, Nguyễn Ánh cũng phải chịu trách nhiệm tất cả. Rất may, Hiệp ước Versailles chỉ là “một trò đùa”, “tờ giấy lộn”. Nhưng nếu nó được thi hành nghiêm túc thì sao ? Hậu quả sẽ khó lường ! Và có thể, Nguyễn Ánh sẽ mang tội với dân tộc đã “đổi đất lấy nước”. Tội này thuộc về tự Đức và phe chủ hòatriều đình Huế “cắt đất giảng hòa” để cuối cùng mất tất cả đất và nước !
Bài học Nguyễn Ánh phải trả giá rất đắt đã trao đứa con trai đầu lòng mới lên ba-Hoàng tử Cảnh-cho hồ ly Bá Đa Lộc. Đức cha cả khoác áo thầy tu, núp dưới danh nghĩa nhà truyền giáo, thực chất là một điệp viên lợi hại. Với Bá Đa Lộc và nhiều cha cố khác, truyền giáo gắn liền với xâm lược. Sau Hiệp ước Versailles, Nguyễn Ánh tiếp tục giao phó con trai sẽ kế nghiệp nhà Nguyễn cho Bá Đa Lộc dạy dỗ, kèm cặp. Ngày giỗ gia tiên, Hoàng tử Cảnh không chịu vái lậy ông bà, Nguyễn vương hỏi đức cha cả tại sao thầy dạy học trò quên ông bà ? Bá Đa Lộc ngang nhiên trả lời: Thờ cúng ông bà, tin ông bà phù hộ con cháu sống lâu, giàu có là mê tín dị đoan ! Nguyễn Ánh bất bình bảo Bá Đa Lộc: Lễ bái là để chứng tỏ con cháu nhớ ơn tổ tiên, ông bà, để đền đáp công ơn ấy, tôi nhất quyết phải giữ đạo ông bà, vì đó là một trong những giáo dục căn bản của xứ tôi. (Tạ Chí Đại Trường-Tài liệu đã dẫn) Nguyễn Ánh bắt đầu nhận ra âm mưu thâm hiểm của Bá Đa Lộc. Ông đặc cử một số nho thần dạy bảo Hoàng tử Cảnh theo lề lối giáo dục truyền thống dân tộc. Bấy giờ ở Nam hà, thế lực giáo sĩ phương Tây rất mạnh, nhưng họ đều phải im lặng trước thái độ cứng rắn của Nguyễn Ánh, kiên quyết xây dựng một quốc gia thống nhất mọi mặt trên cơ sở truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Rất may cho dân tộc Việt Nam, người kế nghiệp Gia Long không phải Hoàng tử Cảnh mà là Minh Mạng, một vua sáng của triều Nguyễn.
Đọc lại sử cũ, chúng ta thấy “Tin bợm, mất bò” là bài học luôn luôn đúng với mọi thời đại. Thời xưa, An Dương vương vì quá “tin” cái nghĩa thông gia thân thiết của bợm Triệu Đà mà mất cả nước, cha con đều rơi vào kết cục bi thảm ! Thời nay, có phải chúng ta lại quá “tin” cái tình anh em đồng chí của Trung Quốc, để mất Hoàng Sa, rồi mười bốn năm sau, mất thêm ba đảo Trường Sa, và bây giờ...???

Dân gian đã nói: “Tin bợm mất bò”. Dân gian lại có câu: “Mất bò mới lo làm chuồng” !

[...]
                                                      HTP-15/7/2014 


........./.


Thủ bút của Trần Trọng Kim-Thư gửi Hoàng Xuân Hãn




Thủ bút của Trần Trọng Kim
gửi Hoàng Xuân Hãn năm 1947

****

Nguyễn Đức Toàn
Viện nghiên cứu Hán Nôm

http://yeuhannom.blogspot.com.au/2013/06/thu-but-cua-tran-trong-kim-thu-gui.html


****


Trần Trọng Kim (1887-1953) là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu văn học, sử học có tiếng trong giới trí thức nước ta thời cận đại. Ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, như Nho giáo, Việt Nam sử lược, có đóng góp cho tri thức và nghiên cứu lịch sử văn hóa nước nhà. Trong khi tiếp xúc với văn bản Nam quốc địa dư chí, tôi phát hiện ra bức thư này nằm giữa tờ bìa ngoài gấp đôi đã bị phết hồ dán kín lại, do thời gian lâu ngày lớp hồ khô đi, trong lúc kiểm tra văn bản bức thư vô tình rơi ra. Được biết một số sách Hán Nôm có nguồn gốc từ thư viện riêng của gia đình GS. Hoàng Xuân Hãn. Bức thư này có lẽ đã đến tay cụ Hoàng và được cụ Hoàng dấu kín vào tờ bìa của cuốn Nam quốc địa dư chí, mà sau này được hiến tặng lại cho thư việnĐối chiếu với tập hồi ký Một cơn gió bụi của cụ Trần đã được xuất bản trong những năm 60, chúng tôi nhận định đây chính xác là bút tích và giọng văn của cụ Lệ thần - Trần Trọng Kim, vì những nhân vật trong thư nhắc đến đều là những gương mặt trí thức chính trị đương thời với cụ. Ngày tháng, sự kiện, giọng văn và tư tưởng trong bức thư hoàn toàn phù hợp với ngày tháng, sự kiện, giọng văn, tư tưởng của cụ Trần trong tập hồi ký đã nêu trên.
Chúng tôi xin được giới thiệu nội dung bức thư như một phần di cảo bút tích của một nhà giáo, một học giả uyên bác và đức hạnh, một nhà nghiên cứu Nho giáo tân học cuối cùng, sau hơn nửa thế kỷ nằm im lìm trong một tập sách cũ. Thấy rõ thêm mối quan hệ giữa hai gương mặt trí thức lớn của nước ta trong lịch sử cận đại. Bên cạnh đó, đặt ra vấn đề thận trọng và nghiêm túc trong công tác bảo quản các tư liệu Hán Nôm của chúng ta hiện nay.
Bức thư gồm 2 tờ viết 2 mặt. 
Nội dung như sau :
 Sài Gòn, ngày 8 tháng 5, năm 19471
Ông Hãn2
Hôm ông Phan văn Giáo3 đưa cái thư của ông vào cho tôi, tôi không gặp ông ấy. Tôi xem thư của ông, nhất là đoạn viết bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch ra quốc-ngữ, gửi sang để Ngài4 xem.
            Gần đây tôi lại được thư khác của ông, do ông Giáo gửi lại cho tôi, đại khái cũng như thư trước. Cái tình thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như ông, cho nên trước khi tôi về, tôi đã dặn Ngài : Trừ khi có bằng-chứng chắc-chắn, thì ngài chớ nghe ai mà về. Sau khi tôi đã về đây rồi tôi lại viết thư ra nhắc lại lời dặn của tôi. Vậy sự ngài về chắc là không có.
Tôi sở dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở bên ấy5, hoang-mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông Cousseau6 do ông D’argenlieu7 sai sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi thái-độ để cầu hoà-bình. Ngài thấy thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người Pháp có thật không, và nhân tiện xem ý tứ người Việt ta thế nào. Nếu làm được việc gì ích lợi cho nước và để cho dân đỡ khổ, thì ta cố làm cho trọn nghĩa-vụ của mình, nếu không thì lương-tâm ta cũng yên, vì đã cố hết sức mà không làm được8.
Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây9, không gặp ông D’argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ ông ấy sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị, nói chuyện thì tử-tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm một nẻo, toàn là những việc mưu-mô lừa dối cả. Lúc đầu tôi có xin cho tôi dược gặp ông, ông Hiền10 và Khiêm11, họ hứa sẽ cho vào ngay, nhưng mãi chẳng thấy ai vào. Tôi biết ý [tr1] cũng không hỏi nữa.
Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy gì là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái-độ khảng khái không chịu để họ lợi dụng, họ phao ra rằng tôi nhu-nhược và đa nghi không làm được việc. Họ cho những người Nam thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả. Cũng vì thế tôi không muốn gặp ông Giáo. Tôi có nói với người Pháp rằng : Tôi về đây, là tin ở lời hứa hẹn của ông Cousseau là đại biểu của Thượng xứ Pháp, nay công việc không xong, thì cho tôi trả ra để bảo cho Ngài biết. Họ nói : Việc ấy cố nhiên rồi, nhưng ông hãy thong-thả chờ ít lâu. Họ nói thế, nhưng tôi biết là họ không cho tôi ra với Ngài, và họ lại cho người khác nói chuyện với Ngài12.
Dù sao, tôi cũng không ân-hận vì việc tôi về đây. Có về đây mới biêt rõ sự thực. Biết rõ sự thực thì cái bụng tôi yên không áy náy như khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi nhất định không làm gì cả. Nếu thời cục yên-ổn thì tôi về ngoài Bắc, néu không tì xoay xở ở tạm trong này, chờ khi khác sẽ liệu.
Còn về phương diện người mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng-nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái-quốc, nhưng cái lòng ái-quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa-vị và quyền-lợi, thành ra tranh dành nhau, nghi-kỵ nhau rồi lăng-mã lẫn nhau. Tôi về đây chỉ gặp Thảo13, Hoè14 và Sâm15. Tôi bảo Sâm nên tìm cách đoàn kết nhau thành khối, thì mới có thể đối phó với người ta được. Sâm cũng cho ý kiến ấy là phải. Song một độ thấy bẵng đi, không đến gặp tôi, rồi bất thình-lình xuất hiện ra Mặt trận quốc gia16, mà không cho tôi biết. Mãi mấy hôm nay mới đến nói rằng vì sự đi lại khó khăn, nên không kịp nói cho tôi biết việc ấy. Tôi bảo hắn rằng : Việc ông làm đó, là việc nên làm, nhưng trước hết phải xếp đặt cho chu-đáo, phải có đủ các cơ-quan tuyên truyền và bênh-vực việc làm của mình. Nhất là phải giao-thông với Mặt trận kháng chiến17, họ [tr2] có đồng ý, thì việc ông làm hoạ may mới có hiệu-quả. Nay việc chưa xếp đặt ra gì cả mà ông đã vội-vàng xướng xuất ra như thế, tôi e khó thành được. Hắn nói : Việc đã trót rồi, đã ném lao thì phải theo lao.

Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà minh thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái dịa vị bàng-quan mà thôi, thật là:       
      
                  
(Thân tại Nam phiên vô sở dự,
Tâm hoài bách ưu phục thiên lự.
= Thân ở cõi Nam không tham dự việc chính trị,
Lòng đã ôm trăm mối lo lắng lại thêm nghìn điều ưu lự)

Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi, nhưng vì chỉ tiếc họ quá thiên về chủ-nghĩa cọng-sản quá. Họ chỉ có một mục-đích là thi hành chủ nghĩa của họ, họ dùng đủ phương diện để đưa người ta vào cái chòng của họ. Sự hành-động của họ ở bên ta cũng như bọn cọng sản đã dùng ở bên Tàu và ở các nước khác, đều theo một lối đúng nhau như hệt. Họ không cần quốc-gia, không cần đạo-đức, nhưng có nhiều người tin ở nghĩa quốc-gia, thì họ lợi dụng cái nghĩa quốc-gia để đạt cái chủ-nghĩa của họ. Lừa dối xảo-quyệt đủ đường, cho nên người ta dễ mắc lừa lắm.
Nay V.M. đứng vào cái địa-vị chống Pháp, tất là có cái thanh-thế rất mạnh. Nếu họ biết đổi cái thái-độ hung tàn bạo ngược đi, và tìm cách thu dụng các đảng phái khác, để lập thành một khối, không khuynh hướng hẳn về Cọng sản, thì có cơ thành công được, nhưng bảo con chó sói trở nên con cừu, thì có thể được không? Dù sao, đối với viêc nước mình, V.M phải chịu cái tiếng      (Công chi thủ tội chi khôi = Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu). Đó là ý kiến riêng của tôi, còn các ông nghĩ thế nào tôi không biết.

Khi tôi ở Hương- cảng, ông Cousseau có cho tôi biết tin ông Oánh18 bị Tây giết, tôi thương ông Oánh quá, có làm bài tuyệt- cú gửi về, nhờ ông đem điếu ông ấy:
            Khóc bạn Nguyễn Băng Hồ
            Đất khách mơ - màng những thở - than,
            Mảng tin bác bị lũ hung tàn.
            Ngắn dài giọt lệ lòng thương bạn,
            Căm giận quân thù đã tím gan.
Ông Oánh sinh thời là một người trung hậu ngay chính, ở đời này thật là ít có. Chẳng may vì duyên nghiệp mà phải cái nạn tai bay vạ gió. Thôi [tr3] thì cũng là một cách ông ấy trả nợ nước.
Tôi muôn nhờ ông một tí việc, khi tôi đi, tôi còn một bản đánh máy tập Vũ trụ đại quân19gửi ông Oánh, nhờ ông thử hỏi nhà ông Oánh xem tập ấy có còn nữa không. Nếu còn, thì ông làm ơn giữ lấy cho tôi, kẻo công trình mất mấy năm trời mà mất đi, thì tiếc quá.
Nhờ ông nói với Khiêm, nhờ hắn đến qua chỗ nhà tôi ở Nhà Rượu20, xem có ai coi giữ cái nhà đã bị đốt21 đó không. Nếu có người coi, thì nhờ Khiêm thử vào trong nhà xem những sách vở có còn gì nữa, thì nhờ hắn nhặt đem về giữ lấy cho tôi. Còn cái nhà bên cạnh mà không hư hỏng lắm thì nhờ hắn xem có thể chữa sửa được không. Giá có thể chữa lại it nhiều rồi cho người ta tạm thuê để lấy tiền và cốt nhất là khi nào tôi có về được, mong còn có chỗ che sương che nắng.(Việc này không cần nữa, vì tôi đã gặp Khiêm ở đây rồi.)22
Ông có biết tin ông Bùi Kỷ23 bây giờ ở đâu không. Tôi về đây không có tin tức gì về đường nhà ông Bảng cả.
Nhà tôi và Chương24 đều có lời chúc ông bà được mạnh khoẻ. Tôi có lời thăm ông Hiền, Khiêm và Hoè và tất cả các bạn. Ông Hoè hôm ra Hà-nội có đến gặp tôi, nhưng vội quá, không viết được thư. Bây giờ ông Hoè ở đâu và làm gì?
Sau này ông có gửi thư cho tôi, nên để chờ khi nào có người chắc chắn vào đây, đưa đến cho tôi thì hơn. Không nên gửi người không được chắc chắn.
                                                            Nay kính thư
                                                                        Trần Trọng Kim [tr4]


||||||||||||||||||||||||||||||||


Chú thích :
1. 8/5/1947 : ngày viết thư. Một cơn gió bụi có ghi việc Cao uỷ Pháp là Bollaert ra Bắc : “ngày 8/5 mấy hôm trước khi ông Bollaert ra Bắc, ông Didier Michel hẹn đến gặp tôi”. Bức thư có lẽ được cụ Trần nhờ Didier Michel gửi hộ.
2. Ông Hãn: Chỉ Hoàng Xuân Hãn, nguyên Bộ trưởng bộ giáo dục và Mỹ thuật của chính quyền Trần Trọng Kim trước Cách mạng tháng 8. Năm 1947 Hoàng Xuân Hãn còn đang ở Hà Nội.
3. Phan văn Giáo: Dược sĩ, chủ hiệu thuốc lớn ở Thanh Hoá, là nhà Tư sản nổi tiếng có tư tưởng thân Pháp. Bị bắt trong Cách mạng tháng 8, sau được thả ra. Sau năm 1945 tiến hành nhiều cuộc vận động để khôi phục chính thể quân chủ ở miền Nam.
4. Ngài : Chỉ vua Bảo Đại - Vĩnh Thuỵ, lúc này đã thoái vị. Sau được chính quyền cách mạng cử đi công cán Trung Quốc, thì ở lại không về và sang ở Hương Cảng. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd)
5. Bên ấy : Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra thì Trần Trọng Kim đang ở Huế. Bảo Đại thoái vị, ông về ở làng Tại Thế gần thôn Vĩ Dạ, đóng cửa đọc sách không ra ngoài. Đầu năm 1946 thì về Hà Nội, không tham gia việc gì nữa. Sau khi Bảo Đại đi sang Trung Quốc, rồi ở lại không về. Cuối tháng 5/1946, quân Tầu Tưởng rút dần về nước. Tháng 6/1946, Trần Trọng Kim theo một số người của Quốc Dân đảng sang Trung Quốc tìm bắt liên lạc với Bảo Đại, và gặp nhau ở Hương Cảng.
6. Cousseau : Quan cai trị, từng làm Công sứ ở nhiều tỉnh tại Bắc Kỳ, là người móc nối dàn xếp đưa Bảo Đại từ Hương Cảng về nước để thành lập chính phủ theo ý người Pháp. (Phạm Khắc Hoè. sđd)
7. D’argenlieu : Cao uỷ Pháp tại Đông Dương lúc bấy giờ. Năm 1947 thì về nước cho Bollaert sang thay. (sđd)
8. Trần Trọng Kim, sđd, tr166, 167...
9. hôm 6 tháng 2 tây : ngày Trần Trọng Kim về đến Sài Gòn. Một cơn gió bụi có ghi : “ngày 5 đến Sài Gòn, nhưng đến sáng mùng 6 mới lên bờ.”
10. ông Hiền : Luật sư Vũ Văn Hiền, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tài chính. Bị quân Pháp bắt giữ sau ngày toàn quốc kháng chiến năm 1946 ở Hà Nội cùng với Phạm Khắc Hoè, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Xuân Chữ, ... sau được thả ra. (Phạm Khắc Hoè, sđd)
11. Khiêm : Có thể là Phạm Duy Khiêm, người cùng tham gia với Trần Trọng Kim soạn sách “Việt Nam văn phạm”.
12. Trần Trọng Kim lúc này đã không còn giá trị. Người Pháp muốn tách ông ra khỏi Bảo Đại để không thể gây ảnh hưởng, cản trở ý đồ thành lập một chính phủ theo ý muốn của người Pháp.
13. Thảo : Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), luật sư toà Thượng thẩm Sài Gòn, là một luật sư rất có uy tín, thường đứng ra bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động cấp dưới, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tư pháp, Phó chủ tịch hội đồng cố vấn chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam. Sau ra chiến khu tham gia thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hoà bình Việt Nam, đi nhiều nước vận động chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, Uỷ viên trung ương mặt trận tổ quốc, Đại biểu quốc hội.
14. Hoè : Phạm Khắc Hoè, giữ chức Đổng chưởng lý văn phòng Ngự tiền của vua Bảo Đại. Sau này đi theo kháng chiến, bị Thực dân Pháp bắt đưa về miền Nam dụ dỗ quay trở lại phục vụ Bảo Đại không thành, phải thả ông ra ở Hà Nội, ông tìm cách trốn khỏi thành phố lên chiến khu, có viết tập hồi ký “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc”. Tập hồi ký này có nhắc đến việc ngày 16/4/1947, Phạm Khắc Hoè có đến chào từ biệt Trần Trọng Kim trước khi ra Hà Nội. Thư này viết sau khi Phạm Khắc Hoè đi Hà Nội gần một tháng (8/5/1947). (Phạm Khắc Hoè, sđd)
15. Sâm : Nguyễn Văn Sâm, Chủ tịch hội ký giả Nam Kỳ. Bị Thực dân Pháp an trí ở Sóc Trăng vì những hành động chống Pháp. Năm 1945, tham gia chính quyền Trần Trọng Kim, Hội viên hội đồng dự thảo Hiến pháp. Sau được phái đi làm Khâm sứ Nam Kỳ để tiếp thu Nam Kỳ được Nhật trao trả, chưa kịp thực hiện thì cách mạng tháng 8 bùng nổ. Là người tham gia thành lập Mặt trận quốc gia Việt Nam ở miền Nam, là thủ lĩnh đảng Việt Nam quốc dân độc lập, ông bị ám sát chết cuối năm 1947. (Nguyễn Quang Thắng, sđd)
16. Mặt trận quốc gia : Ngày 17-2-1947, Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam cùng một số nhân sĩ đã tiếp xúc với Bảo Đại và đã thành lập một Mặt Trận mệnh danh là Mặt Trận Quốc Gia nhóm tại Hương Cảng gồm: Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn có mục đích lợi dụng Bảo Đại để tranh thủ độc lập nhưng Bảo Đại cũng như các nhà thực dân khác không chịu được sự "khó tính" của Mặt trận này nên đã gạt khéo Mặt trận ra ngoài và sau này, Bảo Đại về lập chính phủ chỉ có nhân viên của các nhóm tư bản và của đế quốc cộng tác mà thôi. Với những thành phần "Nam kỳ quốc" và bọn tay chân của đế quốc, Pháp tạo ra các chiêu bài độc lập, tính đánh lừa dân chúng Việt Nam nhưng đã thất bại. Nguyễn Văn Sâm chắc cũng tham gia trong mặt trận này.
17. Mặt trận kháng chiến : Chỉ Mặt trận kháng chiến của nhân dân miền Nam (?)
18. ông Oánh : Tức Nguyễn Quang Oánh (1888-1946), anh ruột Nguyễn Văn Ngọc (hiệu Ôn Như). Làm Thanh tra các trường Sơ học, Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, từng cùng Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ biên soạn sách Tiểu học Việt Nam văn phạm giáo khoa thư. Toàn quốc kháng chiến, ông bị giặc Pháp ập vào nhà bắn chết ngày 22/12/1946. (Trần Văn Giáp, sđd); Nguyễn Băng Hồ : Chỉ tên hiệu của ông Nguyễn Quang Oánh là Băng Hồ.
19. Vũ trụ đại quan : Một trong các công trình nghiên cứu của Trần Trọng Kim. (Trần Văn Giáp, sđd)
20. Nhà Rượu : Trần Trọng Kim có nhà ở khu vực gần Nhà máy Rượu Hà Nội (phố Nguyễn Công Trứ). Tức là căn nhà 41 phố Hàng Chuối (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi,Nxb.Vĩnh Sơn, S., 1969)
21. “Cái nhà của tôi ở phố nhà Rượu cũng bị quân tự vệ đốt cháy. Thành ra bao nhiêu sách vở của tôi, có lắm quyển rất cổ rất quý, tích trữ trong mấy chục năm, đều hoá ra tro tất cả. Tôi vẫn chưa hiểu vì lẽ gì mà họ đốt nhà tôi, hoặc là vì đốt nhà bên cạnh mà cháy lây sang, hoặc vì Việt Minh thấy tôi bỏ đi, họ giữ không được, họ cho lệnh đốt nhà cho bõ tức”. Trần Trọng Kim, sđd.
22. Tác giả tự đánh dấu, và ghi chú sang bên cạnh thư, nhắc việc này thôi vì đã nhờ được rồi.
23. Bùi Kỷ : Tức cụ Phó bảng Bùi Kỷ (1887-1960), Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, cùng Trần Trọng Kim biên soạn nhiều tác phẩm : Truyện Thuý Kiều, Việt Nam văn phạm, Nho giáo. Chủ tịch Hội văn hoá kháng chiến liên khu 3, uỷ viên Hội Liên Việt liên khu, Chủ tịch hội hữu nghị Việt- Trung. (Trần Văn Giáp, sđd)
24. Chương: Tên người, lúc đầu tôi chỉ tra cứu được 1 người tên Chương là Luật sư Trần Văn Chương, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Ngoại giao. Đến hôm 9.2.2014, bài viết nhận được phản hồi từ bà Phạm Thị Lệ Hương, 1 Việt kiều Mỹ cung cấp thông tin sửa sai cho, tên Chương là tên con gái cụ Trần Trọng Kim, tức bà "Trần Thị Diệu Chương, vì trong thư Cụ Kim thường kêu các C ngang tuổi là Ông… mà không nói tên trống không như thế này, vả lại Cụ viết “nhà tôi [tức là vợ của Cụ] và Chương đều có lời chúc ông bà…” thì chắc chắn phải là người trong gia đình Cụ. Con gái độc nhất của cụ tên là Trần Thị Diệu Chương, vẫn còn sống ở Pháp, năm nay cỡ 90 hay trên 90 tuổi 1 chút (ngang tuổi ông Bùi Diễm là con trai Cụ Bảng Bùi Kỷ là first cousin của bà Trần Diệu Chương, vì Cụ Bùi Kỷ là anh của Cụ bà Trần Trọng Kim).] Sở dĩ tôi dám quả quyết như thế này là vì tôi là người trong họ của Cụ bà Trần Trọng Kim, nên tôi đọc thư của Cụ Kim viết cho Cụ Hoàng Xuân Hãn tôi hiểu như thế. Tôi có hỏi thêm những người trong họ thì mấy nguời đó cũng nghĩ như tôi viết cho anh ở trên." (trích thư phản hồi của bà Phạm). Tôi xin sửa lại chú thích này theo ý kiến phản hồi của bà Phạm và xin trân trọng cám ơn bà. 

Thư mục tham khảo

1.Lệ thần - Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb Vĩnh Sơn, S,. 1969
2. Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, H,.1986
3. Nguyễn Quang Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. S,.1982
4. Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Hán Nôm II. H.,1987
5. La Sơn Yên Hồ - Hoàng Xuân Hãn. Nxb GD, H,. 1998 (2t)


Phụ lục ảnh nguyên văn









.........../.