SỰ ĐÁNG SỢ CỦA NƯỚC MỸ




SỰ ĐÁNG SỢ CỦA NƯỚC MỸ

Đại tướng Lưu Á Châu

 *******************



(Đây là phần lược dịch bài diễn văn của Đại tướng Lưu Á Châu, hiện đang là Chủ nhiệm chính trị lực lượng Không quân của Quân khu Bắc Kinh.)

Trong quá khứ, vì để giúp Trung Hoa thoát khỏi ách thống trị thực dân mà Mỹ đánh bại Nhật, họ có cống hiến lớn đối với tiến bộ văn minh của xã hội Trung Hoa.

Hai nước Trung Hoa - Mỹ không có xung đột vì lợi ích căn bản. Ngày nay, do lợi ích của Mỹ rải khắp toàn cầu nên 2 nước có xung đột. Nhưng chúng ta vẫn phải dùng tấm lòng đạo đức để bình xét sự vật chứ không thể kích động. 
Tôi từng nói rằng đối với Nhật, một nước từng tàn sát mấy chục triệu đồng bào ta, mà chúng ta thường xuyên nói 2 nước "phải đời đời kiếp kiếp hữu hảo với nhau". Thế thì chúng ta có lý do nào để căm ghét nhân dân Mỹ từng giúp ta đánh bại Nhật? 

ĐÂU LÀ CHỖ THỰC SỰ ĐÁNG SỢ CỦA NƯỚC MỸ? 

Tuy rằng Mỹ có quân đội mạnh nhất thế giới, khoa học kỹ thuật tiến bộ nhất thế giới, nhưng tôi cho rằng những cái đó không đáng sợ.

Nghe nói máy bay tàng hình của Mỹ thường xuyên ra vào bầu trời Trung Quốc rất thoải mái, nhưng điều ấy chẳng có gì đáng sợ cả. Cái đáng sợ của họ không phải là những thứ ấy. 

Năm 1972, tôi học ở Đại học Vũ Hán, lên lớp giờ chính trị. Một thầy giáo khoa chính trị nói: "Nước Mỹ là đại diện của các nước tư bản mục nát, suy tàn, đã sắp xuống mồ, hết hơi rồi." 

Tôi, một sinh viên công nông binh mặc bộ quân phục, đứng ngay lên phản bác:
" Thưa thầy, em cảm thấy thầy nói không đúng ạ. Tuy rằng nước Mỹ không giống Trung Quốc là mặt trời nhô lên lúc 8- 9 giờ sáng, nhưng Mỹ cũng chẳng phải là mặt trời đang lặn gì gì đó, mà là mặt trời lúc giữa trưa ạ." 
Thầy giáo bực mình, tái mét mặt ấp úng nói: "Cái cậu học sinh này, sao dám nói thế hả!" Ông ấy không hỏi tôi tại sao lại nói thế, mà dùng một chữ "dám". Lúc đó tôi thấy hết tâm trạng của ông. 

Chính là cái nước tư bản mục ruỗng suy tàn ấy vào thập niên 90 thế kỷ trước đã lãnh đạo cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới nhất trên thế giới. Tôi tốt nghiệp đại học đúng vào lúc bắt đầu cải cách mở cửa. 

Tôi lại có một quan điểm: Nước Mỹ là quốc gia do hàng chục triệu con người  đều rất yêu nước Mỹ. Hồi ấy rất nhiều người lãnh đạo TQ vừa chửi Mỹ vừa gửi con cái mình sang Mỹ. Một sự tương phản lớn! 

VẬY THÌ CÁI ĐÁNG SỢ CỦA MỸ LÀ Ở ĐÂU?
Tôi cảm thấy có ba điểm.

Điểm thứ nhất, không thể coi thường CƠ CHẾ TINH ANH CỦA MỸ. CHẾ ĐỘ CÁN BỘ, CHẾ ĐỘ TRANH CỬ CỦA MỸ.

Bi kịch của Trung Quốc chúng ta :phần lớn tình hình là người có tư tưởng thì không quyết sách, người quyết sách thì không có tư tưởng. Có đầu óc thì không có chức vụ, có chức vụ thì không có đầu oc. 

Nước Mỹ ngược hẳn lại, cơ chế hình tháp của họ đưa được những người tinh anh lên. Nhờ thế,

1 -là họ không mắc sai lầm;

2 -là họ ít mắc sai lầm;

3 -là mắc sai lầm thì có thể nhanh chóng sửa sai. Chúng ta thì mắc sai lầm, thường xuyên mắc sai lầm, mắc sai lầm rồi thì rất khó sửa sai. 

Mỹ dùng một hòn đảo Đài Loan nhỏ xíu để kiềm chế Trung Quốc chẵn nửa thế kỷ.

Nước cờ này họ đi thật linh hoạt, thật thần kỳ. Một Đài Loan làm thay đổi hẳn sinh thái chính trị quốc tế. 

Điều tôi lo ngại nhất là bộ khung chiến lược phát triển Trung Quốc trong thế kỷ mới sẽ vì vấn đề Đài Loan mà biến dạng. Ngày nay, đối với các dân tộc có thế mạnh thì tính quan trọng của lãnh thổ đã giảm nhiều, đã chuyển từ tìm kiếm lãnh thổ sang tìm kiếm thế mạnh của quốc gia. 

Người Mỹ không có yêu cầu lãnh thổ đối với bất cứ quốc gia nào. Nước Mỹ không quan tâm lãnh thổ, toàn bộ những gì họ làm trong thế kỷ XX đều là để tạo thế. Tạo thế là gì? Ngoài sự lớn mạnh về kinh tế thì là lòng dân chứ còn gì nữa! Có lòng dân thì quốc gia có lực ngưng tụ, lãnh thổ mất rồi sẽ có thể lấy lại. Không có lòng dân thì khẳng định đất đai sở hữu sẽ bị mất. 

Có nhà lãnh đạo quốc gia chỉ nhìn một bước. Nước Mỹ hành sự thường nhìn 10 bước. Vì thế cho nên mỗi sự kiện lớn toàn cầu xảy ra sau ngày Thế chiến II chấm dứt đều góp phần làm tăng cường địa vị nước Mỹ. Nếu chúng ta bị họ dắt mũi thì có thể sẽ mất hết mọi con bài chiến lược. 

Tôi nhiều lần nói là trung tâm chiến lược của Mỹ sẽ không chuyển sang châu Á đâu, song điều đó không có nghĩa là Mỹ không bao vây Trung Quốc. 

Rất nhiều bạn chỉ thấy Mỹ bao vây Trung Quốc về quân sự, cũng như rất nhiều người chỉ thấy khoảng cách chênh lệch về KHKT và trang bị vũ khí giữa 2 nước mà chưa nhìn thấy sự mất cân đối nghiêm trọng hơn sự lạc hậu về trang bị trên mặt chiến lược lớn, nhất là trên tầng nấc ngoại giao. 

Sau vụ 11/9, Mỹ nhanh chóng chiếm Afghanistan trong vòng 2 tháng, từ phía Tây bao vây Trung Quốc.

Sức ép quân sự của Nhật, Đài Loan, Ấn Độ cũng chẳng bớt đi. Xem ra chúng ta giành được từ vụ 11/9 một số lợi ích trước mắt, song các lợi ích đó không quá 1- 2 năm có thể biến mất. Tôi cho rằng bao vây chiến lược đối với Trung Quốc là một kiểu khác,không phải là quân sự mà là siêu việt quân sự.

Bạn xem đấy, mấy năm gần đây các nước xung quanh Trung Quốc tới tấp thay đổi chế độ xã hội, biến thành cái gọi là quốc gia "dân chủ". Nga, Mông Cổ thay đổi rồi, Kazakhstan thay đổi rồi.

Cộng thêm các nước trước đây như Hàn Quốc, Phillippines, Indonesia, lại cộng thêm vùng Đài Loan.

Đối với Trung Quốc, sự đe doạ này còn ghê gớm hơn đe doạ quân sự. Đe doạ quân sự có thể là hiệu ứng ngắn hạn, còn việc bị cái gọi là các quốc gia “dân chủ” bao vây là hiệu ứng dài hạn. 

Điểm thứ hai   SỰ ĐỘ LƯỢNG VÀ KHOAN DUNG CỦA NƯỚC MỸ.
Bạn nên sang châu Âu, sau đó sang Mỹ, bạn sẽ thấy một sự khác biệt lớn: Sáng sớm, các đường phố lớn ở châu Âu chẳng có người nào cả, còn tại Mỹ sáng sớm các phố lớn ngõ nhỏ đều có rất nhiều người tập thể dục, thậm chí cả ngày như thế. Tôi có một câu nói: Tập thể dục là một phẩm chất, tập thể dục đại diện cho một kiểu văn hoá khí thế hừng hực đi lên.

Một quốc gia có sức sống hay không, chỉ cần xem có bao nhiêu người tập thể dục là biết.

Người Mỹ có thể lấy quốc kỳ làm quần lót để mặc. Hồi ở Mỹ tôi có mua một chiếc quần cộc cờ sao vạch. Tôi thường xuyên mặc chiếc quần ấy. Tôi mặc nó là để khinh miệt nó, là để trút giận, là một dạng trút sự bực bội và thoả mãn về tâm lý.

Người Mỹ mặc nó là sự trêu chọc bỡn cợt, bản chất khác. Người Mỹ có thể đốt quốc kỳ nước mình ngoài phố. 

Đới Húc [*] nói: Nếu một quốc gia có thể đốt cả quốc kỳ của mình thì anh còn có lý do nào đi đốt quốc gia ấy nữa? 

Điểm thứ ba  SỨC MẠNH VĨ ĐẠI VỀ TINH THẦN VÀ ĐẠO ĐỨC.
Đây là điều đáng sợ nhất. Vụ 11/9 là một tai nạn. Khi tai hoạ ập đến, thể xác ngã xuống trước tiên, nhưng linh hồn vẫn đứng. Có dân tộc khi gặp tai nạn thể xác chưa ngã mà linh hồn đã đầu hàng. 

Trong vụ 11/9 có xảy ra 3 sự việc đều có thể để chúng ta qua đó nhìn thấy sức mạnh của người Mỹ. Việc thứ nhất, sau khi phần trên toà nhà Thương mại thế giới bị máy bay đâm vào, lửa cháy đùng đùng, tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Khi mọi người ở tầng trên qua cửa thoát hiểm chạy xuống phía dưới, tình hình không rối loạn lắm. 

Người ta đi xuống, lính cứu hoả xông lên trên. Họ nhường lối đi cho nhau mà không đâm vào nhau. Khi thấy có đàn bà, trẻ con hoặc người mù tới, mọi người tự động nhường lối đi để họ đi trước. Thậm chí còn nhường đường cho cả một chú chó cảnh. Một dân tộc tinh thần không cứng cáp tới mức nhất định thì dứt khoát không thể có hành vi như vậy. Đứng trước cái chết vẫn bình tĩnh như không, e rằng không phải là thánh nhân thì cũng gần với thánh nhân. 

Việc thứ hai, hôm sau ngày 11/9, cả thế giới biết vụ này do bọn khủng bố người A Rập gây ra. Rất nhiều cửa hàng, tiệm ăn của người A Rập bị những người Mỹ tức giận đập phá. Một số thương nhân người A Rập cũng bị tấn công. Vào lúc đó có khá nhiều người Mỹ tự phát tổ chức đến đứng gác trước các cửa hiệu, tiệm ăn của người A Rập hoặc đến các khu người A Rập ở để tuần tra nhằm ngăn chặn xảy ra bi kịch tiếp theo. 

Đó là một tinh thần thế nào nhỉ. Chúng ta thì từ xưa đã có truyền thống trả thù. Thành Đô nơi tôi ở, ngày xưa Đặng Ngải [8] sau khi chiếm được Thành Đô, con trai của Bàng Đức [9] giết sạch giá trẻ gái trai gia đình Quan Vũ. Trả thù đẫm máu, lịch sử loang lổ vết máu không bao giờ hết. 

Việc thứ ba, chiếc máy bay Boeing 767 bị rơi ở Pennsylvania vốn dĩ bị không tặc dùng để đâm vào Nhà Trắng. Sau đấy hành khách trên máy bay vật lộn với bọn khủng bố nên mới làm máy bay rơi.

Vì lúc ấy họ đã biết tin toà nhà Thương mại thế giới và Lầu Năm Góc bị máy bay đâm vào nên họ quyết định không thể không hành động, phải đấu tranh sống chết với bọn khủng bố. Cho dù trong tình hình ấy họ còn làm một chuyện thế này: 

Quyết định biểu quyết thông qua có nên chiến đấu với bọn khủng bố hay không. Trong giờ phút quan hệ tới sự sống chết ấy, họ cũng không cưỡng chế ý chí của mình lên người khác.

Sau khi toàn thể mọi người đồng ý, họ mới đánh bọn không tặc. 

Dân chủ là gì ; đây tức là dân chủ.
Ý tưởng dân chủ đã thấm vào sinh mạng của họ, vào trong máu, trong xương cốt.
Một dân tộc như thế mà không hưng thịnh thì ai hưng thịnh.
Một dân tộc như thế không thống trị thế giới thì ai có thể thống trị thế giới.  


Đại Tướng LƯU Á CHÂU






[*] Đới Húc là một sỹ quan không quân, giảng viên của trường ĐH Quốc phòng Trung Quốc, giám đốc Viện nghiên cứu về An ninh và Hợp tác hàng hải Trung Quốc .


////////////////



NGHĨ VỀ MỘT THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ




NGHĨ VỀ MỘT THÁI ĐỘ
ĐỐI VỚI CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ
Trần Văn Chánh





     Nhân vật lịch sử thường được hiểu là những đã người sống trong quá khứ từng có tham gia nhiều ít và về mặt này mặt khác trong quá trình diễn tiến của lịch sử, không phân biệt hoàn cảnh xuất thân hay lý lịch tốt xấu (“trung/ nghịch, chánh/ ngụy”, “yêu nước/ phản quốc”, “tiến bộ/ lạc hậu”, “cách mạng/ phản động”…). Nhân vật lịch sử vì thế không nhất thiết phải là danh nhân, đều là con người nên có mặt tốt mặt xấu, có những lúc yếu mềm lầm lỗi, nhưng tất cả đều có vai trò riêng trong một bối cảnh lịch sử nhất định.
     Ở nước ta đã có một vài công trình biên soạn tổng hợp về nhân vật lịch sử, với sự xuất hiện trong đó đủ loại nhân vật thuộc nhiều lĩnh vực hoạt động và khuynh hướng tư tưởng, chính trị khác nhau. Vì không phân biệt lý lịch tốt xấu, có công đóng góp xây dựng hay gây hại cho dân tộc, nên sách viết về nhân vật lịch sử, nhất là ở thể loại từ điển, cần có sự trung thực, mô tả khách quan tiểu sử, hành trạng của từng nhân vật dựa trên càng nhiều càng tốt những tài liệu xác thực còn có thể kiểm chứng được, rồi có sao kể vậy theo một trật tự logic mạch lạc, và nếu có thể, diễn tả một cách hấp dẫn, chứ không nên và cũng không cần đưa ra những nhận định đánh giá gắt gao này khác theo nhận thức chủ quan hay định kiến giáo điều của người biên soạn. Những công trình biên soạn về nhân vật lịch sử vì thế tuyệt đối tránh óc đảng phái, “bài xích dị kỷ” (công kích loại trừ những kẻ khác mình), đơn giản chỉ vì hoàn cảnh quá khứ khác hoàn cảnh hiện tại, mà nhận thức, hành vi của từng nhân vật lịch sử thì luôn không thể tách khỏi hoàn cảnh độc đáo cá nhân cũng như bối cảnh lịch sử cụ thể mà nhân vật đang sống.
     Ví như thời Trịnh-Nguyễn phân tranh (từ giữa đầu thế kỷ 17) bên cạnh vua Lê thì người Việt Nam đương nhiên cơ bản chia làm 2 phe (không có 2 phe thì lấy gì đánh nhau?). Bước sang giai đoạn tranh hùng giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh (cuối thế kỷ 18) thì cũng có hai phe kình chống nhau quyết liệt và mỗi bên đều có những anh hùng của mình (như Võ Tánh, Ngô Tòng Châu… của Nguyễn Ánh; Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân… của Tây Sơn, hoàn cảnh giữa họ tuy khác khau nhưng ai nấy đều có nhân cách/ chí tiết đáng trọng). Trong thời Pháp thuộc (tạm tính từ hòa ước Patenôtre 1884 và sau cuộc binh biến 1885 ở Huế kết thúc cuộc chiến tranh xâm lăng của Pháp) thì trừ đại đa số quần chúng nhân dân không tên tuổi ra, số người nổi tiếng đáng gọi nhân vật lịch sử đương nhiên phải chia làm nhiều thành phần khác nhau, tùy hoàn cảnh: một số làm việc cho chính quyền thuộc địa, một số phục vụ trong bộ máy triều đình phong kiến cũ của các vua, và số khác nữa không chấp nhận số phận nô lệ của bản thân và của dân tộc đã đứng ra tổ chức kháng chiến hoặc theo quân kháng chiến chống Pháp trong các phong trào yêu nước. Sau hiệp định Genève 1954, đất nước tạm thời chia đôi ở vĩ tuyến 17 hình thành thế cục đấu tranh Nam-Bắc với nhiều lý do rất ngoắt ngoéo phức tạp thì nhân vật lịch sử, gồm các tướng tá và công chức dân sự bậc trung-cao của mỗi bên đương nhiên cũng phải chia thành 2 phe phục vụ cho công việc/ mục đích chính trị mỗi bên, không thể có chuyện số lớn người sĩ quan VNCH vượt tuyến ra Bắc phục vụ cho chế độ XHCN miền Bắc, cũng như ngược lại không thể có số lớn cán bộ CS trốn vào miền Nam để kiếm sống (ngoại trừ việc lúc đó họ được phân công vào Nam vì lý do chiến tranh).
     Cái chung hơn hết là hoàn cảnh cá nhân cũng như hoàn cảnh lịch sử-xã hội mà cá nhân bị chi phối và phần lớn thường rất khó chủ động thoát ra được. Chúng ta không thể đòi hỏi các nhà văn hay cán bộ nghiên cứu ở các trường, viện ngoài Bắc giai đoạn 1954-1975 hiểu thấu hoặc hiểu đúng về lịch sử Việt Nam vì cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim và những sách tương tự đều bị cấm đọc. Những nhân vật lịch sử có công đóng góp lớn cho nền văn hóa dân tộc như Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, nhóm Tự Lực Văn Đoàn (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo…)… thì hầu như ít ai được biết tới, hoặc chỉ biết lơ mơ sai sự thật. Các học thuyết khác ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin về văn học, triết học, kinh tế học (thị trường) của nhân loại thì lại càng không thể… Cho nên bây giờ nhìn lại với quan điểm thông thoáng hơn, cần phải có sự cảm thông chân thành và đúng liều lượng đối với một số anh em trí thức miền Bắc, trong khoảng thời gian mấy mươi năm, về những mặt hạn chế tri thức và tư duy giáo điều mà không ít người trung thực đã thú nhận có thời gian họ đã vấp phải, vì tất cả đều do hoàn cảnh cá nhân và nghịch cảnh ngoắt ngoéo của lịch sử dân tộc này mà ra.
     Trong lịch sử, tính cách của cá nhân và hoàn cảnh sống của mỗi con người là rất quan trọng, khó có thể ai nói tài hơn ai. Bẩm tính, năng khiếu, bản lĩnh và xu hướng hoạt động theo ngành nghề gì cũng rất khác nhau. Có người chịu làm chính trị, tham gia quốc sự, dám chịu tra tấn tù đày vì việc nước, đáng gọi anh hùng, thì cũng có người tuy vẫn âm thầm yêu quê hương xứ sở, biết đau xót vì thân phận dân tộc bị nô lệ, nhưng kém bản lĩnh chiến đấu, không dám xông pha chiến trận, sợ thấy chém giết…. Dạng người này, không ít trong mọi xã hội mọi thời đại, muốn được sống bình yên, chỉ mong “cẩu toàn tính mệnh ư loạn thế”, nên họ có khuynh hướng tìm những việc làm thích hợp trong khối dân sự ít thấy đổ máu, bằng cách “trốn quân dịch”, tham gia các hoạt động văn hóa giáo dục, hoặc thậm chí… đi tu: nếu tiêu cực là để lánh cuộc đời xào xáo, còn tích cực là để hoằng pháp, giảng đạo với hi vọng cứu đời bằng con đường xây dựng đạo đức cho tha nhân theo hướng hòa bình lương thiện.  Cụ Đào Duy Anh là một dạng người có phần tương tự như vậy, lúc đầu hăng hái làm chính trị cách mạng, từ khoảng năm 1926, nhưng vì ngại cảnh tù đày tra tấn, đã xoay ra hoạt động văn hóa suốt mấy mươi năm, bằng hoạt động giáo dục và khảo cứu, đóng góp được rất nhiều cho xã hội qua những công trình bất hủ…(xem Phan Huy Lê, “Đào Duy Anh, hành trình gian truân của một nhà sử học”, tạp chí Xưa Nay, số 459, tháng 5.2015, tr. 9-19). Giả định cụ Đào tiếp tục làm chính trị và bị thực dân Pháp bắt xử tử, thì câu chuyện về cụ đã chuyển sang hướng khác hẳn, nhưng xét cho cùng, với tâm chất, tính cách học giả thứ thiệt như cụ thì trước hay sau gì cũng không thể làm chính trị thành công được. Cho nên cũng không thể nói Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài (năm 1930) vì chống thực dân Pháp bất thành là yêu nước và anh hùng hơn cụ Đào Duy Anh được, vì hình thức lựa chọn việc làm của hai người khác nhau, theo những khuynh hướng, nhân sinh quan, điều kiện, hoàn cảnh, năng lực, tâm chất cá thể không giống nhau.   
     Cho nên ở đây cũng cần có một cách nhìn thông thoáng hơn về khái niệm yêu nước. Không phải không có loại nhận thức khá ấu trĩ và phiến diện cho rằng yêu nước chủ yếu gắn với tinh thần bất khuất, hi sinh dũng cảm chiến đấu thắng lợi vẻ vang, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng..., thay vì lẽ ra nên nhấn mạnh nhiều hơn đến khía cạnh yêu nước ở lòng tự trọng, ước muốn hoàn thiện bản thân-rèn luyện nhân cách, ý thức chấp hành bổn phận và kỷ luật…, thể hiện qua những hành vi bình thường hằng ngày của công dân, trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định.
     Cũng phổ biến có loại quan niệm về yêu nước, về chủ nghĩa anh hùng phân biệt theo đảng phái hay giai cấp, cách mạng vô sản hay cải lương tiểu tư sản… Chẳng hạn, cho rằng yêu nước theo kiểu một số nhà văn nhóm Tự Lực Văn Đoàn là nhuốm màu tiểu tư sản, phải bài bác, phủ định, trong khi thật ra nhóm này chỉ chủ trương rất đơn giản: yêu nước là yêu tha thiết đám nông dân nghèo khổ dốt nát cày sâu cuốc bẫm chiếm đa số trong thành phần dân tộc, phải nỗ lực tìm mọi cách vận động để giúp đỡ, nâng cao đời sống của thành phần xứng đáng đại diện cho dân tộc này lên, hầu mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho họ (nói trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Con đường sáng của Hoàng Đạo…).    
     Trở lại vấn đề thái độ đối với nhân vật lịch sử, thấy có loại quan niệm hẹp hòi đơn giản, đại khái, phàm hễ ai theo Nguyễn Ánh chống Tây Sơn hoặc thuộc hàng ngũ vua quan triều Nguyễn, người theo đạo Thiên Chúa, người làm công chức cho Pháp, không chống Pháp hoặc chủ trương “Pháp-Việt đề huề” (như Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu…), người theo các đảng phái “quốc gia”… thì cơ bản nếu không bị coi “nối giáo cho giặc” thì cũng sai lầm hèn kém tệ hại tất tần tật (trong khi đó thật ra, vua quan triều Nguyễn, ngay từ thời Tự Đức, trước sau đều đã chống Pháp rất dữ, nhưng thất bại vì thời đại chủ nghĩa tư bản lúc đó đang bành trướng với lực lượng quân sự rất mạnh…). Với cách nhìn nhận và ứng xử này, sau ngày 30.4.1975, khi chiến tranh Việt Nam vừa chấm dứt, “bên thắng cuộc” đã cho hủy bỏ hết thảy các tượng đài, tên đường, tên trường học… mang tên những nhân vật lịch sử có lý lịch dính dáng như trên, và dường như chỉ chừa lại vài ba con đường mang tên Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn (đều ở quận 4, TP. HCM) đơn giản vì các vị đại thần này mặc dù cũng quan lại triều Nguyễn nhưng lại tiêu biểu cho phái chủ chiến chống Pháp quyết liệt: người thì như Hoàng Diệu quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882, còn Tôn Thất Thuyết thì đã cùng với Nguyễn Văn Tường tổ chức cuộc binh biến 1885 ở Huế làm cho quân ta chỉ trong một đêm 4.7.1885 vừa chết thảm vừa bị thương đến số vạn, thây phơi đầy đường, hàng đống người “cụt tay, cụt chân, lòi ruột, toạc đầu, quằn quại trong vũng máu”, vua Hàm Nghi phải xuất bôn chạy ra căn cứ Tân Sở, nhưng vẫn không đạt được mục đích như mong muốn (xem Lưu Anh Rô-Lê Anh Tuấn, “Tìm hiểu cuộc chính biến kinh thành Huế…”, tạp chí Xưa Nay, số 459, tháng 5.2015, tr. 42-47). Để ý ra, chúng ta thấy, theo quan điểm “chính thống”, dường như hễ ai chủ chiến, quyết tử đều coi như lý lịch tốt, xếp vào “phe ta”. Điều này hoàn toàn đúng, nhưng sẽ càng đúng hơn nếu người ta không vì đó mà phủ nhận sạch trơn những người không chủ chiến, không hi sinh liều chết do sự run rủi cá nhân hoặc do hoàn cảnh sống trong một xã hội cụ thể khiến phải có những lựa chọn khác.  
      Cách làm việc khách quan của các ban biên tập từ điển nước ngoài cũng thế, chẳng hạn từ điển Larousse nổi tiếng lâu đời của Pháp, phần nhân vật Việt Nam nếu miền Bắc có Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… thì trong Nam cũng có Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu… Vì vấn đề chủ yếu là giúp cho người sử dụng từ điển tra trong đó để biết nhân vật X nào đó là ai, chứ không để đường lối chính trị-ngoại giao nhất thời chi phối. Được biết, trong bộ Britannica Concise Encyclopedia vừa có bản dịch tiếng Việt gần đây với tên gọi Từ điển bách khoa Britannica (NXB Giáo Dục, 2014), phần nhân vật Việt Nam cũng có đủ hai phe (gồm 8 người, xếp theo thứ tự A, B, C…): Bảo Đại, Hồ Chí Minh, Lê Lợi, Ngô Đình Diệm, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp (xem Nguyễn Việt Long, “Chuyện kể từ người tham gia làm Britannica tiếng Việt”, báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần, 5.7.2015, tr. 27).
     Nhân vật lịch sử, xét về phương diện việc làm của họ trong quá khứ và trong tương quan với quyền lợi cộng đồng, quyền lợi dân tộc, lẽ tất nhiên cũng có người tốt, kẻ xấu, cần được mô tả khách quan, đúng sự thật, để cho thế hệ trẻ hiện tại qua đó nhận xét, đánh giá.
Chẳng hạn Trần Bá Lộc (1839-1899) là một cộng sự viên đắc lực của thực dân Pháp khét tiếng trong việc đàn áp nhiều cuộc khởi nghĩa yêu nước ở miền Nam Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ 19 thì chẳng ai dám khen là tốt cả, nhưng khi viết tiểu sử, cũng không được bỏ qua sự kiện hệ thống kênh đào do ông chỉ huy đã đem lại lợi ích to lớn cho vùng đất Đồng Tháp Mười… Nói chung, đối với nhân vật lịch sử, ai cũng vậy, phải nêu đủ cả những mặt tốt, xấu của họ ra cho mọi người biết dựa theo sử liệu chính xác, chứ không nên vì định kiến hoặc giáo điều nào đó mà dùng lời lẽ phê bình theo kiểu mạt sát, thiếu lễ độ đối với các bậc tiền bối đã ra người thiên cổ.
     Ở thời hiện tại có người tốt, kẻ xấu thì trong quá khứ lịch sử cũng vậy thôi, không bao giờ có toàn người tốt hay toàn kẻ xấu. Gương lịch sử hữu ích ở chỗ biết nhìn vào đó để soi rọi, rút tỉa kinh nghiệm cho việc làm hiện tại, bằng cách chú ý mặt tốt để khích lệ các thế hệ hậu bối, còn mặt xấu vẫn kể ra cho biết nhưng cũng chẳng có gì cần phải làm ầm ĩ quá đáng, như số ít tờ báo, tạp chí những năm gần đây đã làm rất hăng hái và đầy định kiến đối với một số nhân vật thuộc diện “phức tạp” vì có lý lịch liên quan triều Nguyễn, thực dân Pháp, đạo Thiên Chúa…, nổi bật như vua Gia Long, các ông Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh...




     Lạ nhất là trường hợp Trương Vĩnh Ký (1837-1898), thiết tưởng cũng nên nêu điển hình để luận giải cho vấn đề đang xét, vì gần đây có vài sự kiện dính đến tên ông mà ông bị vài tờ báo, tạp chí lôi ra chỉ trích, trong khi cả nước đều coi ông là nhân vật lịch sử tiêu biểu, nhà bác học, danh nhân văn hóa xuất sắc hiếm hoi của vùng đất mới Nam Bộ với nhiều đóng góp cho sự nghiệp văn hóa đất nước, được chọn để đặt tên đường phố và tên trường học ở nhiều nơi, đặc biệt tại TP. HCM.
Năm 1941 từng được nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đưa vô hàng đầu sách Nhà văn hiện đại trong số “Các nhà văn đi tiên phong”, với lời nhận xét khẳng định chắc nịch: “Trương Vĩnh Ký thì thật là một nhà bác học. Ông không những là một nhà văn, một nhà viết sử, một nhà dịch thuật, mà lại còn là một người rất giỏi về khoa ngôn ngữ học. Ông thật xứng đáng làm tiêu biểu cho tất cả những người sốt sắng với quốc văn lúc đầu ở Nam Kỳ; sự nghiệp của ông, chúng ta không thể nào không biết đến được” (Nhà văn hiện đại, Tập I, NXB Thăng Long, Sài Gòn, 1960, tr. 37). Sách chuyên khảo bằng tiếng Pháp và tiếng Việt về sự nghiệp văn hóa của Trương Vĩnh Ký đến nay đã có đến số chục (như của một số tác giả: Jean Bouchot 1927, Đặng Thúc Liêng 1927, Khổng Xuân Thu 1958, Nguyễn Sinh Duy-Phạm Long Điền 1975, Nguyễn Văn Trấn 1992, Nguyễn Văn Trung 1993, Bằng Giang 1994, Trần Thị Nim 1998, Hoàng Lại Giang 2001, Tạp chí Xưa Nay [chủ biên] 
2002/2006…).




    Thế nhưng, vì lý do để công kích nội dung một cuốn sách trong đó có tiểu sử Trương Vĩnh Ký, một tác giả đã viết: “Trương Vĩnh Ký là một điển hình của giới trí thức học cao biết rộng, phục vụ đắc lực cho chủ nghĩa thực dân Pháp, không có chỗ đứng trong lịch sử văn hóa nước nhà (TVC nhấn mạnh), nhưng trong cuốn sách này coi ông như một ‘nhà bác học’ ‘có cống hiến to lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây’” (xem Tuần báo Văn Nghệ TP. HCM, số 343, ngày 5.3.2015, tr. 11).
     Cũng trong tháng 3.2015, Trương Vĩnh Ký lại bị thêm một đợt “tấn công” dồn dập, nhân sự kiện họ Trương được tôn vinh là nhân vật kiệt xuất có công đối với văn hóa Việt Nam, trong dịp tổ chức Giải thưởng Phan Châu Trinh của Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh do bà Nguyễn Thị Bình và nhà văn Nguyên Ngọc chủ xướng. Một tờ tạp chí đã dành liên tiếp 2 số báo để vừa công kích Giải thưởng Phan Châu Trinh vừa nêu lên những mặt xấu, hạn chế của Trương Vĩnh Ký, nhưng chủ yếu nói ông là tay sai đắc lực của thực dân Pháp, và “vấn đề là ở chỗ Trương Vĩnh Ký hoàn toàn không xứng đáng (TVC nhấn mạnh)…” (Tạp chí Hồn Việt, số 92, tháng 5.2015, tr. 51). Ngoài ra, tạp chí còn cho trích dẫn một số tài liệu, bức thư của Trương Vĩnh Ký chứng tỏ ông rất trung thành với nước Pháp và qua một số công trình biên soạn đã tận tâm đắc lực trong nhiệm vụ giúp thực dân Pháp thi hành chính sách đồng hóa dân tộc Việt.
     Đọc một số tài liệu trưng dẫn kể trên, có những câu như “lòng tôi luôn thuộc về nước Pháp”, “Người bề tôi tận tâm và vâng lời”… (Hồn Việt, tlđd., tr. 67), chúng ta ngày nay chắc chắn sẽ ít nhiều cảm thấy như bị dị ứng khó chịu, và tự ái nữa, liên tưởng đến những lời ca tụng tương tự sau này của hậu bối Phạm Quỳnh (1892-1945) đối với nước “Đại Pháp”, nhưng nếu bình tĩnh đứng trên một quan điểm cận nhân tình hơn để xem xét, sẽ thấy vì đều là công chức của Pháp, các ông đương nhiên phải phát biểu những câu sáo thưa gởi như vậy là chuyện rất bình thường, theo kiểu “ăn cây nào rào cây nấy”, để được việc, như trong một số trường hợp khác người ta phải dùng những cụm từ đôi khi còn sống sượng hơn để ca tụng chế độ mình đang phục vụ. Dù thế nào chăng nữa, không thể chỉ vì vài bức thư hay những câu sáo ngữ như thế mà các ông không còn là danh nhân văn hóa của nước Việt, vì phần đóng góp của các ông chủ yếu trong phạm vi văn hóa giáo dục chứ không phải quân sự hay chính trị.
Thực tế cho thấy, trong điều kiện Pháp thuộc, hầu hết nhân tài Việt Nam trên mọi lãnh vực hoạt động đều được đào tạo từ nền giáo dục mới của Pháp, mà một số không ít trí thức về sau đã trở thành những nhà hoạt động chống Pháp tích cực (Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường…). Tương tự như vậy, khi Pháp đặt ách thống trị lên các quốc gia nhược tiểu thì cũng có hai mặt lợi hại đi liền theo nhau: ngoài chuyện bóc lột, họ cũng đương nhiên để lại, dù muốn hay không, một số di sản hữu ích cho các dân tộc bị trị như khoa học-kỹ thuật, giáo dục, y tế, giao thông công chính, hành chính…hiện đại, và đặc biệt là những tư tưởng về tự do dân chủ và cách mạng.



Petrus Ký (1837-1898) vào năm 1883, ở tuổi 46



     Riêng nhân vật Trương Vĩnh Ký, vấn đề nằm ở chỗ, dù thật sự trung thành với thực dân trong tư cách công chức Pháp thì ông vẫn là một người Việt Nam có cuộc sống đạo đức nghiêm chỉnh, cả đời học giả chỉ biết căm cụi nghiên cứu, trước thuật một cách hoàn toàn lương thiện, lại thường bị thiếu túng, thiếu nợ nhà in vì sách báo in ra bán không chạy…, không nghe ai nói ông có lem nhem gì đối với công quỹ, hay làm bất cứ hành động gì có hại cụ thể cho nhân dân lao động.
Còn chuyện năm 1886, Trương Vĩnh Ký được Toàn quyền Paul Bert cử vào Huế làm việc ở Viện Cơ mật, nếu không phải họ Trương thì cũng phải có một nhân vật lịch sử Việt Nam nào khác.
Giả định Trương Vĩnh Ký lúc 8 tuổi không có cơ duyên theo đạo Công giáo và được đưa đi du học nước ngoài, thì ông cũng chỉ trở thành một đứa bé chăn trâu làm ruộng, giống như mọi đứa trẻ chăn trâu khác sống ở cái ấp Cái Mơn nghèo khổ khỉ ho cò gáy của tỉnh Vĩnh Long mà thôi, làm gì có những công trình văn hóa đồ sộ mà nhiều thế hệ đã được thừa kế và thụ hưởng?             
     Bình luận về con người trong lịch sử vì thế không thể thiếu sự thông đạt chính trị nhân tình, và đức công bằng, luôn biết đặt con người vào trong hoàn cảnh cá nhân cụ thể cùng với những mối tương tác nhân quả trùng trùng duyên khởi của các sự kiện chi phối bên ngoài, từ đó có được quan điểm phóng khoáng khoan dung, biết hòa giải với quá khứ trong tinh thần cởi mở để hướng đến hiện tại và tương lai, chứ không nên chỉ chuyên moi móc quá khứ với các kiểu thái độ cực đoan, phiến diện, căm thù, chỉ gây thêm mầm mống chia rẽ trong lòng dân tộc, và vì thế cũng không thể đạt được sự hòa giải đích thực trong hiện tại được.    
                                     
12.7.2015
Nguồn: Bán nguyệt san Văn Hóa Phật Giáo, số 230 (1.8.2015)
......./.



Cách mạng văn hóa là tội của ai?






Cách mạng văn hóa là tội của ai?










Hidematsu Hiyoshi[1]
(trao đổi với giáo sư Mao Vu Thức)
_______________________________




Trong thời đại Mao Trạch Đông, dân chúng không có quyền tự do ngôn luận, tự do theo đuổi nghề nghiệp, tự do cư trú và tự do đổi nơi cư trú. Điều mà người dân có thể làm chỉ là sự phục tùng. Bởi vì “kẻ không phục tùng không có cơm ăn”, ai không phục tùng thì phải “đói mà chết dần”. Tất cả bi kịch cũng như mọi chuyện hoang đường xuất hiện trong thời Cách mạng Văn hóa không phải là trách nhiệm và lỗi lầm  của nhân dân Trung Quốc (trong đó có giáo sư  Mao Vu Thức[2]). Tạp chí Minh Kính số tháng 8 đăng bài “Kỉ niệm một vị nữ thánh” của Ngô Giá Tường.[3] Trong bài  có nhắc đến chuyện kinh tế gia Mao Vu Thức phát biểu trong lễ kỉ niệm tròn 90 năm ngày sinh Vương Bối Anh[4] rằng “Bi kịch Cách mạng Văn hóa dù do lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông đích thân đạo diễn, cộng thêm nhóm tứ nhân bang cùng những kẻ tay sai trợ ác cùng lắm cũng chỉ mấy trăm người. Vậy mà cả nước sáu bảy trăm triệu người điên cuồng vào cuộc. Có một nửa trách nhiệm ở người dân.
Nếu Mao Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì làm việc đó thì khẳng định là làm không nổi”.[5] Giáo sư Mao có dũng khí phản tỉnh như vậy thực đáng ca ngợi. Vậy mà người viết bài này quả thật không dám đồng ý với phát biểu cho rằng nhân dân phải gánh một nửa tránh nhiệm về bi kịch Cách mạng Văn hóa và nếu như là ở Mĩ thì không thể tiến hành được cuộc cách mạng đó. Chúng tôi cho rằng quan điểm đó có  vấn đề về logic rất đáng được trao đổi thêm.
 “Kẻ không phục tùng không có cơm ăn”
Cách mạng Văn hóa sở dĩ có thể phát động và lôi cuốn dân chúng – việc này hoàn toàn có quan hệ với thể chế chính trị Trung Quốc. Dưới thời Mao, dân không chỉ mất quyền tự do ngôn luận. Đến quyền tự do chọn nghề nghiệp, tự do cư trú và di chuyển cũng chả có. Mỗi một người đều trở thành “chiếc đinh ốc” trong cỗ máy quốc gia. Còn Nhà nước thì trở thành người chủ nhân công duy nhất, người kinh doanh của tất cả các xí nghiệp. L.Trotsky nói từ 1937: “Trong những nước mà Nhà nước là người thuê nhân công duy nhất, phản kháng đồng nghĩa với việc “từ từ chết đói”. Nguyên tắc xưa cũ “kẻ không lao động không được ăn” đã bị thay thế bởi nguyên tắc mới “kẻ không phục tùng không được ăn”[6] (sách “Đường đến nô dịch”). Trong một xã hội như thế, việc mà dân chúng có thể làm chỉ có thể là phục tùng và phục tùng. Bởi vì “kẻ không phục tùng không được ăn”, kẻ không phục tùng thì sẽ đối diện với uy hiếp của cái chết phải “từ từ chết đói”. 
Ta hãy xem tình cảnh xã hội Trung Quốc thời Mao. Chính quyền mới được thành lập sau 1949. Trong thập niên những năm 50 hàng loạt các cuộc vận động chính trị và trấn áp phản cách mạng do Mao phát động đã tiêu diệt triệt để giai cấp trí thức thân hào trong xã hội Trung Quốc truyền thống.
Những chức năng có tính truyền thống của xã hội Trung Quốc theo đó cũng tiêu vong. Trên một cơ  sở như thế Mao đã sử dụng năm thủ đoạn kể sau để khống chế chặt chẽ xã hội dưới tay  mình.
Thủ đoạn thứ nhất – Chế độ hộ khẩu
Chế độ hộ khẩu kiểu Trung Quốc phân tách thành thị và nông thôn. Nông dân suốt đời bị cầm cố ở nông thôn, các hộ dân quê không có cách nào để dời lên thành phố. Không có hộ khẩu thành phố thì không có chỗ làm, không có hộ khẩu thành phố thì không có phân phối lương thực, không có hộ khẩu thành phố không những không làm được bất cứ việc gì mà chính ra là không thể sinh tồn. Dân thành phố cũng bị cầm cố tại chính nơi cư trú của mình.
Việc chuyển chỗ ở giữa các thành phố cũng vì chế độ hộ khẩu mà chịu sự khống chế hoàn toàn. Chế độ hộ khẩu đó dẫn đến vấn đề bất bình đẳng về mức sống, việc làm, đi học giữa nông thôn và thành phố. Vậy nhưng chỗ giống nhau về quyền lợi chính trị mà dân nông thôn và dân thành phố được hưởng đều là “không có gì”.
Chế độ hộ khẩu Trung Quốc còn có một công năng khác, đó là thông qua hộ khẩu cưỡng chế những ai không phục tùng hay có kiến giải độc lập về nông thôn tiếp thu giáo dục lao động cải tạo. Sự khác biệt giữa thành phố và nông thôn kiểu như thế hoàn toàn là do con người tạo nên. Những ai có hiểu biết về thời kì lịch sử đó đều thấy rõ như thế
Thủ đoạn thứ hai – Chế độ tem phiếu phân phối
Mao Trạch Đông dùng chế độ phân phối tem phiếu để nắm chặt trong tay mình nguồn nhu yếu phẩm phục vụ đời sống nhân sinh. Bất cứ một số lượng tiêu dùng nhu yếu phẩm nào cần thiết cho sinh hoạt đều được phân phối, người dân không thể tự do có được các nhu yếu phẩm đó. Khi mua lương thực không những cần có sổ mà còn cần cả tem phiếu, có tiền cũng không mua được định mức quy định theo tháng. Điều cần phải chỉ rõ là, phiếu lương thực còn chia thành loại phiếu thông dụng toàn quốc, loại phiếu dùng ở địa phương các tỉnh và loại phiếu dùng cho các thành phố. Trừ loại phiếu lương thực thông dụng toàn quốc ra, hai loại sau chỉ có thể dùng trong phạm vi các tỉnh các thành phố.
Người ta không thể xoay trở được nếu như không có phiếu lương thực. Chỉ riêng với chế độ phiếu lương thực đã có thể khống chế được quyền tự do hành động của dân chúng. Nhưng chế độ phân phối của Mao gồm một nội dung hết sức rộng rãi. Tất cả đều được phân phối theo phiếu – có phiếu dầu ăn, phiếu vải, phiếu trứng, phiếu đường, phiếu thịt, phiếu máy khâu, phiếu xe đạp,… Đến tết có phiếu hàng tết.Đủ loại tem phiếu quán xuyến toàn bộ đời sống người dân Trung Quốc.
Thủ đoạn thứ ba – Chế độ hồ sơ lí lịch
Chế độ hồ sơ lí lịch không xa lạ đối với mỗi người dân Trung Quốc. Cho dù anh học ở trường, công tác ở các đơn vị cơ quan hay về hưu ở nhà (về hưu hồ sơ lí lịch được chuyển về khối phố hoặc công xã nơi đương sự sinh sống). Hồ sơ lí lịch theo liền với từng người cho đến hết đời. Chức năng của chế độ hồ sơ lí lịch không thua kém gì một sự theo dõi ngầm của cơ quan công an. Trường học và cơ quan sẽ ghi vào hồ sơ nếu đương sự bị kỉ luật.
Những nhận xét hay giới thiệu mà chính đương sự không được đọc thấy hay không được chính đương sự xác nhận cũng được phê viết vào hồ sơ lí lịch. Tính cách tiêu cực hay tích cực của những lời phê đó ảnh hưởng đến đến cuộc sống giữa xã hội của chủ nhân bộ hồ sơ. Những ai có dũng cảm phàn nàn, nêu ý kiến hay phát ngôn trái lạ đều bị ghi vào trong hồ sơ lí lịch. Còn như việc sẽ chịu xử lí như thế nào thì chỉ còn trông chờ vào may rủi. Chế độ hồ sơ lí lịch phi nhân tính đó trên thực tế đã tước đi quyền tự do ngôn luận. 
Thủ đoạn thứ tư – Chế độ giáo dục lao động cải tạo
Giáo dục lao động cải tạo được nói là một loại xử phạt hành chính nhưng trên thực tế rất gống với xử phạt hình sự. Chế độ giáo dục lao động có tính tùy tiện, nó có thể do một đơn vị cơ quan quyết định. Như thế chế độ giáo dục lao động khiến cho các cơ quan đơn vị trở nên rất gần với một cấp tư pháp nhưng tùy tiện và vô pháp luật. Mặc dù nói là  xử phạt hành chính và được gọi là “trị bệnh cứu người” nhưng những người bị bắt đi lao động không những mất quyền tự do nhân thân đồng thời họ cũng trở thành “tiện dân” của xã hội và chịu sự kì thị.
Nghiêm trọng hơn là khi mãn hạn lao-giáo rồi người ta vẫn có thể cưỡng chế người bị giáo dục bằng lao động đó ở làm việc tại chỗ. Trên thực tế đó là một thứ tù không kì hạn, suốt đời bị giam thân cảnh tù, mất hẳn tự do. Việc có thể tùy ý thực hiện chế độ lao-giáo đối với dân chúng là biểu hiện của sự khủng bố chính trị thời Mao.
Thủ đoạn thứ năm – Chế độ cơ quan đơn vị
Dưới thời Mao, “cơ quan/đơn vị” trên thực tế chính là chỗ để khống chế cá nhân. Quyền tự do theo đuổi nghề nghiệp bị tước bỏ, tất cả mọi người đều nhận công tác theo sự sắp xếp của nhà nước. Người ta không có quyền chọn công việc và cũng không có quyền từ chối công việc được phân công. Nhà nước không cho phép tùy ý từ chức hay đổi công tác. Mỗi một người suốt đời làm việc ở những vị trí công tác đã được phân công.
Tiền lương do nhà nước quy định. Tình trạng đi làm cả đời không có tăng lương là rất nổi bật. Một khi anh rời khỏi đơn vị hoặc bị đơn vị khai trừ đồng nghĩa với việc hoặc là anh đã ra khỏi cái xã hội mà Mao đang khống chế hoặc là anh bị cái xã hội đó khai trừ. Anh sẽ lâm cảnh đường cùng, mất hết nền tảng sinh hoạt. Trong cái chế độ cơ quan-đơn vị đó, để sinh tồn kiếm sống nuôi gia đình anh chỉ có thể phục tùng và phục tùng.
Nhân dân Trung Quốc không có tội và cũng không có trách nhiệm về Cách mạng Văn hóa.Thời đại Mao Trạch Đông chính là dùng những thủ đoạn như thế để khống chế toàn bộ xã hội Trung Quốc. Cộng thêm vào đó là hết cuộc vận động chính trị trị này đến cuộc vận động chính trị kia. Tất cả khiến cho nhân dân Trung Quốc thực không có lấy một cơ hội nào để thở lấy hơi nữa. Cách mạng Văn hóa trong suốt quá trình của nó xem ra rất là hỗn loạn nhưng cả xã hội vẫn được khống chế chặt trong tay Mao. Mà Cách mạng Văn hóa là một cuộc vận động chính trị nhằm giải quyết chuyện người thừa kế quyền lực.
Nói cách khác Mao phát động Cách mạng văn hóa là nhằm mục đích biến giang sơn của một  đảng thành giang sơn của một nhà, chuẩn bị cho Giang Thanh tiếp nối quyền hành[7] (Xem Lưu Thông, “Mục đích của Cách mạng Văn hóa – Xác lập người thừa kế quyền hành”). Trong Cách mạng Văn hóa, từ trên xuống dưới, từ trong đảng đến người ngoài đảng tất cả đều bị cuốn vào trong đó. Người bị cuốn vào không biết nguyên do sự việc nhưng kẻ phát động thì từng bước hướng cuộc vận động đi đến mục tiêu đã dự định trước.
Nhiều lãnh đạo cấp cao bị cuốn vào mà không sao hiểu được nguyên do, họ lại còn đứng đó hô hào học tập. Họ cảm thấy chuyện dường như là “cách mạng gặp phải vấn đề mới”. Nhiều lãnh đạo bị lôi ra phê đấu bắt đầu công việc tự kiểm thảo đi kiểm thảo lại. Mao Trạch Đông bày đặt mê hồn trận, khiến cho đám đông những là “đối tượng của cách mạng” từ to đến nhỏ không biết phải như thế nào cho phải, suốt này hoảng hốt giữa rầm trời tiếng hô khẩu hiệu và tiếng hô đả đảo. Trong một không khí khủng bố chính trị như thế, quần chúng dân đen không chút quyền hành sống khác gì chết. Họ đến nói năng cũng phải giữ mồm, không cẩn thận là bị hàng xóm thậm chí chính vợ (chồng) con cái mình phản ánh, tố giác.
Trong thời buổi Cách Văn hóa, ai cũng run sợ cho bản thân, ngay cả người thân cũng không được tin. Lúc bấy giờ, “tin tưởng” đã trở thành từ đồng nghĩa của từ “nguy hiểm”. Bạn bè tri âm trở thành người cáo giác, người dám nói thẳng chẳng khác gì đang đào huyệt cho mình. Cả nước từ trên xuống dưới chỉ mỗi Mao là người hưởng quyền “tự do ngôn luận” ghi trong hiến pháp. Mọi công dân của cộng hòa quốc này đều đã bị tước bỏ quyền phát ngôn. Mọi hành động đều chờ chỉ huy của Mao, vạn vật sinh trưởng cũng nhờ sự tưới tắm của “lời dạy của chủ tịch” (ngữ lục).
Trong những năm tháng gọi là “cách mạng” đó, mở miệng là “muôn năm”, kiểm thảo ngày nào cũng có, tự sát trở thành ước mơ. Tất cả là để làm gì? Vận động quần chúng là để chặn đánh tâm lí phản nghịch của quần chúng. Vận động lãnh đạo cao cấp là để chống lại “lửa bất bình” nơi họ, làm cho họ cụp tai cúi đầu cam nô lệ. Mao gây bao án oan, bức đồng chí không ngừng tự kiểm thảo. Mao muốn tinh thần “tội tổ tông” thấm sâu vào thần dân. Chỉ như thế thì mới có thể khiến cho dự trù chính trị của mình thực hiện thông suốt. Ham sống sợ chết là thiên tính của con người.
Trong một xã hội mà không khí khủng bố nhuốm mùi tanh của máu, dân chúng xô dạt theo dòng lớn là chuyện không khó hiểu cả về tình lẫn về lí. Hẵng xem một người tài năng tót vời như Quách Mạt Nhược đã phải sống một cuộc sống run rẩy kinh hãi ra sao là đủ biết quần chúng thường dân vì sao lại phải “ngây cuồng”. Hẵng xem biết bao nhà văn nổi tiếng bỗng chốc tất cả cùng im lặng tập thể, gác bút tập thể là đủ thấy Mao Trạch Đông đã không chế thành công xã hội Trung Quốc đến mức nào. Cũng đủ để thấy dân chúng vì sao phải “ba phải a dua”. Bởi vì họ chỉ mỗi việc phải phục tùng, “ngây cuồng” hay “ba phải vào hùa” là kết quả của việc phải phục tùng. Không thế thì sẽ “dần dần chết đói”.
Dám chắc giáo sư  Mao Vu Thức cũng ở trong đội ngũ đó. Đó quyết không phải là tội lỗi và trách nhiệm của nhân dân Trung Quốc (gồm cả giáo sư trong đó). Quả đúng như giáo sư đã nói: “Nếu Mao Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì làm Cách mạng Văn hóa thì khẳng định là làm không nổi”. Sở dĩ những việc tương tự Cách mạng Văn hóa không thể phát động nổi ở Mĩ là bởi vì chế độ chính trị quốc gia này không cho phép các nhà chính trị muốn làm gì thì làm. Điều còn quan trọng là, các nhân vật chính trị ở Mĩ là do dân chúng bỏ phiếu chọn ra.
Tất cả những người đó (bao gồm cả tổng thống) đều phải chịu trách nhiệm trước dân chúng. Thế nên chính trị gia tại Mĩ không thể hành động khinh suất hay tùy ý trái phản ý dân. Ai cũng biết chính trị Trung Quốc thời Mao và chính trị Hoa Kì không giống nhau. Vậy đương nhiên là ngón nghề của Mao làm sao mà thi hành được ở Hoa Kì! Bản thân Mao cũng biết rõ điều đó. Sau lúc Liên Xô hạ bệ Stalin, chính Mao từng nói nếu như ở các nước phương Tây thì đã không có chuyện kiểu Stalin.[8] 
Thế nhưng Mao hoàn toàn không rút ra bài học gì cả. Sau vụ Watergate, Richard Nixon bị điều trần. Bill Clinton vì chuyện quan hệ ngoài hôn nhân mà bị quốc hội điều tra và ông đã buộc phải xin lỗi dân Mĩ.
 Ngược lại Mao chưahề có một lời xin lỗi nào về những việc sai lầm của mình. Bành Đức Hoài[9] dũng cảm vì dân cuối cùng cũng chỉ là “Tôi không uống thuốc của Mao Trạch Đông” “Tôi không ăn cơm của Mao Trạch Đông”.[10] Một nguyên soái chiến công hiển hách cũng chỉ biết dùng cách đó để phản kháng thì còn yêu cầu được người dân phải làm thế nào?
Một chế độ tốt đẹp có thể khiến một người xấu không dám làm việc hư, một chế độ bất lương có thể khiến người tốt làm việc xấu.
Đây là lí do vì sao người ta yêu cầu phải cải cách thể chế. Giả sử, nếu xưa kia các bậc tiên hiền buổi đầu nước Mĩ kiến quốc không dựng nên chế độ dân chủ, nếu  G.Washington sau 8 năm làm tổng thống không sáng suốt và dứt khoát rút lui khỏi đời sống chính trị, nếu không có việc những người kế thừa Washington thể chế hóa hành động của ông, nếu Washington thực hiện triệt để chế độ chính trị kiểu Mao thì hoàn toàn có thể khẳng định – việc xuất hiện thảm cảnh Cách mạng Văn hóa hay việc nảy sinh bi kịch tương tự bi kịch của những Trương Chí Tân[11], Vương Bối Anh là hoàn toàn có thể.
Vì vậy, tất cả những bi kịch hay những chuyện hoang đường xuất hiện trong Cách mạng Văn hóa chỉ có thể là trách nhiệm của kẻ phát minh Mao Trạch Đông. Nếu không sẽ là không công bằng đối với lịch sử và cũng là một điều sỉ nhục đối với người dân Trung Quốc – những kẻ không có chút quyền kinh tế và quyền chính trị nào trong tay.



Lê Thời Tân dịch từ nguyên bản tiếng Trung 



(Nguồn: tạp chí Thế giới mới số 14-2013 (1031) ngày 22-4-2013)
đăng lại từ trang khoavanhoc-ngonngu.edu.vn






[1]Học giả Nhật gốc Hoa. Bài đăng trên 《明鏡月刊》nhan đề 文革究竟誰之罪:與茅于軾先生商榷” (xin xem city.mirrorbooks.com).
[2]茅于軾 (Mao Yushi 1929-  ), nhà kinh tế học Trung Quốc đương đại. Năm 1958 bị quy “phái hữu” đình chỉ công tác. Trong Cách mạng Văn hóa bị khám nhà và đấu tố rồi bắt đi lao động. Nhận Giải thưởng kinh tế học Milton FriedmanLiberty Prize của Mĩ năm 2012.
[3] 吳稼祥(Wu Jiaxiang 1955 –  ), nhà nghiên cứu kinh tế học, từng thỉnh giảng tại Đại học Harvard. Sau sự kiện mùa xuân Thiên An Môn bị bắt giam. Mãn hạn tù năm 1992. Ngô là một trong những học giả đề xuất sớm nhất ý hướng cải cách xí nghiệp quốc doanh và thực hiện chế độ cổ phần ở Trung Quốc.
[4] 王佩英(Wang Peiying 1915-1970), nguyên là một nữ nhân viên ngành  đường sắt, do phản đối Mao Trạch Đông mà bị bắt vào viện chữa bệnh tâm thần. Trong Cách mạng Văn hóa bị gán tội phản cách mạng, nhét gạch vụn vào mồm và giong phố đấu tố. Sau đó bị phán quyết “lập tức tử hình”. Cuộc xử bắn ngày 27/1/1970 được truyền hình làm gương. Năm 1980 sửa án sai,  kết luận bị bệnh nhân tâm thần không nên kết án hình sự. Năm 2011 kết luận lại Vương vô tội và rút lại lời kết luận Vương mắc bệnh tâm thần.
[5] Xem Ngô Giá Tường, 《雖億萬人,吾往矣 – 紀念一位聖女》đăng trên《明镜月刊》số tháng 8/2010 (kì 6), tr.78.
[6] Xem Vương Minh Nghị dịch, 《通向奴役之路》, Trung Quốc Xã hội Khoa học Xuất bản xã, 1997, tr.116 (The Road to Serfdom  của Friedrich August von Hayek có bản dịch tiếng Việt Đường về  lệ của Phạm Nguyên Trường, Hà Nội, Nxb Tri thức –ND).
[7]Xem劉松,《文化大革命的目的-確立繼承人》introng日本大學大學院國際關係研究科《大學院論集》, kì 11, 2001, tr.61~85. Hoặc xem 關心 dịch,《毛澤東最後的革命》Thinker Publishing (HKLimited xuất bản, 2009, tr.328 (tức cuốn Mao’s Last Revolution của Mac Farquhar và Roderick – ND)                                                                                                                                        
[8] Xem《鄧小平文選》, quyển 2, tr.333
[9] Bành Đức Hoài (1898-1974), nguyên soái, từng là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Chống lại chính sách Đại nhảy vọt của Mao từ Hội nghị Lư Sơn (1959). Bị quy tội phản đảng cách chức và kỉ luật. Trong Cách mạng Văn hóa bị đấu tố đánh đập rồi quy tội gián điệp. Bị thầm vấn hàng trăn lần. Mắc bệnh không được chạy chữa, chết ngày 29/11/1974. Trước lúc chết xin được gặp vợ đã li hôn đang lao động cải tạo ngoại ô Bắc Kinh nhưng bị vợ từ chối. Bình đựng tro cốt ghi thành họ tên khác. Được khôi phục danh dự năm 1978. Ghi chép trong tù xuất bản thành sách nhan đề “Bành Đức Hoài tự thuật” (ND).
[10] Xem 馬輅,佩璞,馬秦泉,《彭德懷廬山起禍》(Bành Đức Hoài – Tội khởi từ Hội nghị Lư Sơn), Nhã Lâm xuất bản xã, 1990, tr.36.
[11] Trương Chí Tân (1930-1975), đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc. Bị bắt tù từ 1969 cho đến 1975 vì dám phê phán sùng bái cá nhân và bệnh tả khuynh. Khác biệt giữa hai người phụ nữ Trương Chí Tân và Vương Bối Anh ở chỗ Trương trước sau không phủ nhận tư cách đảng viên của mình, trong lúc Vương sớm xin ra khỏi đảng. Trương trước lúc đem ra tử hình đã bị tra tấn đến phát điên nhưng vẫn bị cho là giả vờ trong lúc Vương khi đưa ra bắn bị xem là điên. Vương bị siết cổ khi đem ra pháp trường còn Trương bị cắt yết hầu trước khi xử tử. Năm 1978 Trương được khôi phục danh dự, năm 1979 công nhận liệt sĩ (ND).  



.........../.