Giáo sư Trần Văn Khê


__________________________________________________________


Giáo sư Trần Văn Khê qua đời 
[24-6-2015]

__________________________________________________________












http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/20150625/ban-tranvan-khe-da-lanh-giai-nhi-cho-vietnam-ve-conhac/766839.html




TẠI ĐẠI NHẠC HỘI BUDAPEST TRƯỚC HÀNG 70 NƯỚC KHẮP NĂM CHÂU

Bạn Trần-văn- Khê đã lãnh giải nhì cho Việt-Nam về cổ-nhạc


Năm 1949, nhạc sĩ trẻ Trần Văn Khê đã "đơn thân độc mã" thi âm nhạc tại Đại nhạc hội Budapest (Hungari) với 70 nước tham gia rất "hoành tráng". Ngay sau kỳ thi, chàng Trần Văn Khê đã gửi thư về nước báo tin vui. 


TRẦN-VĂN-KHÊ trước khi Đại Hội Budapest - Ảnh Việt báo 18-1949











Tuần san Việt báo số 18-1949 ở Sài Gòn đã đăng toàn văn lá thư - bài viết này của chàng nhạc sĩ trẻ Trần Văn Khê, ngay sau trang 3 xã luận. Và hình bìa tạp chí là hình nhạc sĩ Trần Văn Khê.
TTO xin mạn đăng bài viết cách đây 66 năm này của chàng nhạc sĩ trẻ tài hoa Trần Văn Khê mà ngay từ lúc ấy đã có một  tình yêu dân tộc, quê hương mãnh liệt khi "đem chuông đi đấm xứ người". 

[Bài đăng xin được phép giữ nguyên cách hành văn, từ dùng và quy cách chính tả của người Nam bộ, người Sài Gòn lúc ấy (1949)]

Hình bìa tuần san Việt báo số 18-1949



“…Vẫn biết rằng nhờ toàn-dân Việt-Nam đang anh-dõng tranh-đấu, nhờ những lý-do chánh-trị, họ phải để cho Việt-Nam có một hai kết-quả gì, nhưng tôi sung-sướng vì đã được đem chút tài mọn mà phụng-sự Tổ-quốc: nước Việt-Nam yêu quý của chúng ta”. – TRẦN-VĂN-KHÊ
Tại…
Gửi những anh chị em quen biết,
Budapest, 25-8-49
Tôi gởi thơ nầy để các bạn chia vui với tôi và để khoe với các bạn rằng trong kỳ thi đàn cổ với các nước tại Budapest, tôi đã đem GIẢI NHÌ cho Việt-Nam ngang hàng với Mông-cổ, thua Nga mà hơn Lỗ-ma-ni (Rumani) và Hung-gia-lợi (Hunggari).
Hôm tôi được mời lại Phòng Văn-Hóa của Đại-Nhạc-Hội Budapest để bàn về những cuộc tranh tài về nhạc và khiêu-vũ, tôi đã nói với những nhân-viên Phòng Văn-Hóa rằng: Nước Việt-Nam đã xa xôi lại còn đang tranh-đấu giành tự-do thành ra các nhân-tài vì nhiệm-vụ kháng chiến không thể dự Hội-nghị. Chúng tôi là những sinh-viên ở Âu-châu, bất tài, chỉ cố gắng trình-bày phần nào của văn-hóa Việt-Nam, vì đó là bổn-phận của chúng tôi chứ ra mà tranh tài với các nước thì chúng tôi không dám”.
Nhưng nhân-viên Phòng Văn-Hóa nói rằng: “Nếu Việt Nam không tranh tài về các môn đờn piano hay violon thì ít ra Việt-Nam cũng có một lối nhạc cổ đặc biệt và các nước như Mông-cổ, Hung-gia-lợi cũng sẽ đem nhưng cây đàn cổ thô sơ ra dự thi, anh cố gắng để Việt-Nam có thể góp mặt với các nước chớ!”.
Bảo tôi ra tranh tài thì tôi không dám. Nhưng bảo tôi rán dự thi để Việt Nam được góp mặt với các nước thì tôi khó thể chối từ. Thế là tôi nhận lời.
Về nhà tôi nói với anh em:
“Chắc chắn thể nào mình cũng hạng chót, nhưng ít ra trong lúc dự thi và khi có kết-quả, dầu hạng chót đi nữa, mình cũng làm cho tên tuổi Việt-Nam được người ta để ý thêm một chút. Tôi kỳ này thật là “liều mạng già” làm lý ra dự thi để cho tên Việt-Nam được nhắc nhở đến”.
Tuy nghĩ thế nhưng lòng vẫn phập phồng. Và chiều ngày 17-8-49 tôi o cây đàn cò “chết nhát” của tôi lại, gắn cục tòng chỉ cho ngay, thay dây mới, phủi bụi cây đàn tranh và nhấn dây cho nó êm dây. Đúng 4 giờ chúng tôi lại Magyar Synhez mà dự thi.
Trong lúc chờ đợi, tôi nghe người giới thiệu đọc bằng tiếng Nga, Pháp, Anh, Hung rằng hôm nay có những nước Tiệp-khắc, Hung-gia-lợi, Lỗ-ma-ni, Bảo-gia-lợi (Bungari) và Việt-Nam dự thi về nhạc và khiêu-vũ theo xưa; tôi đâm ra lo.
Đoàn Tiệp-khắc ra sân khấu với trên 80 thanh niên nam nữ hát những bài hát cổ và múa nhưng điệu đặc-biệt theo đồng quê.
Đoàn Bảo-gia-lợi đem trên 100 thanh-niên hợp-xướng những bản xưa và nhảy múa rầm rộ. Lại thêm có giàn nhạc violon đờn theo điệu triganest. Mặc dầu trời không nóng lắm mà tôi toát mồ hôi. Trời ơi! Người ta đi dự thi với hàng trăm người, với bao nhiêu bài hát điệu múa với cả giàn nhạc, mà tôi “đơn thân” với hai cây đàn quèn nầy tôi sợ làm xấu hổ cho Việt-Nam quá. Tôi nhớ lại ân hận rằng không năn nỉ anh Tư Huyện mượn cây đàn-cò cần, để cây đàn-cò bạch chảng của tôi ra sân-khấu dự-thi coi kỳ quá.
Trong khi đoàn Hung-gia-lợi ngoài nhiều lối khiêu-vũ theo xưa còn có thêm một giàn nhạc xưa với cây đàn giống như cây tam-thập-lục với mấy ống sáo bằng đồng bằng cây.
Đoàn Lỗ-ma-ni lựa ra hai người kỳ tài. Một em bé 13 tuổi thổi ông sáo 5 lỗ thổi những bài nhạc xưa giống tiếng sáo của mấy mục đồng đuổi trâu về xóm; một thiếu-nữ chỉ dùng một lá cây mà thổi một điệu nhạc xưa tiếng kêu tương tự như giọng kèn tiểu của nhạc ta. Rồi giàn đờn gồm có mấy cây đàn tam-thập-lục, đàn hình bầu dục như cây tỳ-bà. Thêm vào đấy bao nhiêu điệu múa tưng-bừng.
Chết tôi rồi! Áo tôi ướt đẫm mồ hôi, khi bỏ màn, người giới thiệu ra nói: “Bây giờ đến phiên anh V.K. biểu-diễn cổ nhạc Việt-Nam”.
Trái lại với quang cảnh tưng bừng màu sắc, rầm-rộ với những điệu khiêu-vũ trên sân khấu minh-mông chỉ “đơn thân” và “độc mã” với cây đàn xấu-xí.
Màn kéo lên.
Khán giả hơn ngạc nhiên vì từ 4 giờ tới bây giờ toàn những ban nhạc, những đoàn khiêu vũ bây giờ chỉ một người ngồi với một cây đàn dị kỳ.
Phóng viên các báo chụp hình. Ánh magne-sium làm chóa mắt tôi.
Khi lên dây xong, định thần lại, tôi thấy trên lầu 8 người giám khảo ngồi trước 8 tờ giấy trắng. Thính giả lặng thinh. Tôi nghe tim tôi đập mạnh.
“Cầu xin ông Tổ nhạc giúp cho tôi trong phen nầy”.
Những tay đàn lỗi lạc như Sáu Tửng, Tư Huyện, Sáu Quý, Chín Kỳ,v.v… các anh ở đâu để tôi lãnh trách nhiệm nặng nề là thay mặt cho cổ nhạc Việt- Nam đây?
Tôi bắt đầu rao ít câu. Tôi không rao theo các điệu cải lương. Tôi phỏng theo điệu sa-mạc rồi đặt ra nhiều câu với nhiều ngón run, ngón vuốt.
Hôm nay tôi để cả tâm hồn tôi vào đấy, tôi đàn bực trên rồi xuống bực đưới. Cả rạp im lặng nghe.
Dạo đàn trong 5 phút tôi ngâm 5 câu sa mạc vừa ngâm vừa đàn phụ họa theo. Dứt bài tiếng vỗ tay vang dậy cả rạp và họ vỗ mãi trong vòng gần 2 phút không ngừng. Tôi hơi vững lòng “lên tinh thần” lấy đàn tranh ra. Tôi nhấn trên một sợi dây đến 9 chữ đàn khác nhau. Phóng-viên các báo lại chụp hình một lần nữa. Tôi rao đàn tranh trong 5 phút lại bắt đầu ca bản “Bắc Cung Ai”. Lại cũng vừa đàn vừa ca. Trước khi ca tôi có cắt nghĩa sơ bằng tiếng Anh và tiếng Pháp ý nghĩa bài hát: “một thiếu phụ than thân trách phận”.
Tôi cố diễn tả sự đau đớn của thiếu-phụ bằng giọng ngân, bằng chữ nhất, bằng nét mặt, và khi dứt bài một tràng pháo tay vang dậy. Tôi phải trở ra chào thính-giả mấy lượt. Nhưng tôi nghĩ rằng chẳng qua là lối xã-giao chứ so với các giàn nhạc kia tôi còn cho mình kém quá.
Nhưng tôi đã rán hết sức tôi và tôi đã thành công: tôi đã làm được một số thính giả cảm động vì bài hát.
Nhiều phóng-viên các báo Hung, Tiệp, Lỗ đến hỏi tôi về cây đàn cò và đàn tranh và họ nói rằng đây là đầu tiên trong lịch-sử mà cây đàn tranh và đàn cò lên tiếng tại kinh đô nước Hung.
Cùng đi với tôi, anh Nguyễn-ngọc-Hà đờn bản Thiên-Thai bằng “guitare electrique” nhưng khi nhà báo đến hỏi cây đàn gì anh Hà bảo là cây đàn Lục-huyền cầm Hạ-uy-di cho nó có cái tên Việt-Nam. Anh Hà rất được hoan-nghinh với cây đờn ấy và có điều lạ là dân chúng Hung chưa nghe guitare hawaienne lần nào cả và rất thích giọng đàn uốn éo.
Làm xong phận sự, chúng tôi về ra sung sướng ở chỗ VIỆT-NAM CŨNG ĐÃ GÓP MẶT VỚI CÁC NƯỚC KHÁC trong cuộc tranh tài nầy.
Vài hôm sau nước Nga với một nhạc công danh tiếng biểu diễn balalaika và những cây đàn cổ khác, nước Mông Cổ với cây đàn tami lúc khẩy lúc kéo. Nhạc sĩ Mông-cổ kéo rất hay tiếng kêu như tiếng violoncelle.
Đến bữa 24-8-49, sau khi ban giám khảo cọng điểm lại thì cô thông ngôn hối hả chạy cho tôi hay. “Anh Khê này! Bốn giờ chiều nay anh lại Âm-nhạc-viện mà lãnh thưởng. Phòng Văn-hóa vừa cho hay anh được giải thưởng về nhạc. Anh thay đồ đi mau. Tôi có mấy lời khen anh đấy!”.
Thay đồ đi mà tôi vẫn nghĩ rằng có lẽ mình hạng chót nhưng họ cho giải an ủi hoặc một cấp bằng danh dự chi chi chớ chẳng lẽ mình hơn người ta.
Đến Âm-nhạc-viện thấy bao nhiêu đại biểu các nước ngồi thật. Trên bàn danh dự có Chủ-tịch Thanh niên thế giới, Chủ-tịch sinh viên thế giới, 14 viên giám khảo, các nhạc sư nhạc trưởng các nước.
Hôm ấy, Nga được tất cả 50 giải thưởng đàn violon, đàn piano, hợp xướng, độc xướng, kèn trompette v.v… các anh nhạc sĩ Nga hạng nhứt cả.
Đến phiên cổ nhạc, hạng nhứt anh Garayev (Nga) hạng nhì Biemian (Mông Cổ) và tôi (Việt-Nam), hạng ba Florika (Lỗ-ma-ni) và Beres (Hung-gia-lợi).
Khi kêu đến tên tôi, tôi đi lên sân khấu và trong lúc Chủ-tịch phiên nhóm bắt tay tôi và cả rạp vỗ tay, phóng-viên báo chụp hình, tôi sung sướng vì đại-biểu các nơi không phải hoan-nghinh cá nhân tôi mà hoan nghinh cả một nền cổ nhạc Việt-Nam, tôi sung-sướng vì tôi đã không làm hổ mặt Việt-Nam.
Và nói ra chắc bạn cười tôi sao yếu tánh chớ trong những trường-hợp thế nầy tôi thấy mặt tôi nóng bừng và nước mắt từ đâu tuôn dài theo má khi tôi trở về chỗ ngồi.
Lúc đứng trên sân khấu tôi cố dằn và rán cười nhưng khi về đến chỗ ngồi lại thấy nước mắt đâu nó tuôn ra như thế?
Dở quá bạn nhỉ? Nhưng nhạc-sĩ nào lại chẳng dễ cảm xúc hơn người!
Hôm sau, khi các báo đăng kết quả, khi các đài phát thanh loan báo tin các cuộc tranh tài, nhiều bạn nhạc-sĩ các nước tìm tôi hỏi thăm về âm-nhạc Việt-Nam, về những cây đàn cổ. Tiếc rằng tôi không có những cây đàn sến, đàn kìm, đàn tỳ bà, đàn độc huyền để cho họ biết thêm, vì khi qua Pháp tôi chỉ đem được có hai cây đàn cũ mua lại của người ta. Nhưng hiện giờ tôi quí hai cây đàn ấy lắm. Chúng nó đã giúp tôi trong khi tôi trình bày cổ nhạc Việt-Nam và hôm 24-8, có lẽ tôi đã sống được một phút cảm động nhứt trong đời nhạc của tôi.
Vẫn biết rằng nhờ toàn dân V.N. đang anh-dõng tranh-đấu, nhờ những lý do chính-trị họ phải để cho Việt-Nam có một hai kết quả gì, nhưng tôi sung sướng vì đã được đem chút tài mọn mà phụng-sự Tổ-quốc: nước Việt-Nam yêu quí của chúng ta.


TRẦN-VĂN-KHÊ


////////////////////






 http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/20150625/tho-cho-ban-o-parislich-su-hai-cay-don-da-giup-anh-tranvankhe-doat-giai/766872.html






THƠ CHO BẠN Ở PARIS



Ba tuần sau khi đăng trân trọng ngay ảnh bìa nhạc sĩ trẻ Trần Văn Khê dự Đại hội âm nhạc sinh viên Budapest (Hunggari), Việt báo số 21-1949 tiếp tục đăng ảnh bìa về người nhạc sĩ trẻ này với bài viết bên trong về hai cây đờn mang đi thi của nhạc sĩ sinh viên Trần Văn Khê.





Nhạc sĩ trẻ Trần Văn Khê trên đường sang Thụy Sĩ và Hunggari khi dự Đại hội âm nhạc Budapest (Hungari) - Ảnh bìa Việt báo số 21-1949








Bài viết ký tên Ái Lan, gửi cho một người bạn ở Pháp.

[Bài đăng xin được phép giữ nguyên cách hành văn, từ dùng và quy cách chính tả của người Nam bộ, người Sài Gòn lúc ấy (1949)]
.

Bạn NGỌC-LAN, 
​Trong số báo trước, tôi đã hứa với bạn sẽ kể lại lịch-sử hai cây đờn của anh Khê. Chắc bạn đã mỉm cười, nếu bạn không bỉu môi thầm bảo: Lịch-sử quái gì hai cây đờn ấy.
Thì cứ ra chợ Cầu ông Lãnh mà mua, hay là mua lại đờn cũ của ai đó chớ gì.
Vâng, chính thế, nhưng bạn ạ, bạn có biết đâu trong hai cây đàn đó, nó còn ẩn náu bao nhiêu niềm uẩn khúc đầy triết lý của cái nghèo nơi một nghệ-sĩ chơn chánh như anh Khê chẳng hạn.
Vậy, mời bạn hãy đọc dưới đây một mẫu giai thoại… vui vui về hai cây đờn “bạch chãng” của anh Khê, nhưng tôi cấm bạn cười… ra nước mắt đấy!
Tại nhà ở, chúng tôi đang ngồi nói chuyện phiếm để đỡ sốt ruột trong lúc chờ anh Khê và vài người bạn khác, để dự một bữa tiệc tiễn chơn anh Khê sang Pháp, bỗng một tiếng két của chiếc xe xích-lô thắng ngoài ngõ, và tiếp theo một giọng cười đặc biệt của anh Khê là lúc nào cũng hồn nhiên, sung sướng, từ ngoài cửa ném vào. Một người bạn nói khẽ với tôi: “Anh ấy đi đến đâu là mang cả một vũ-trụ lạc quan đến đó”.
Lời phê-bình vắn tắt, nhưng rất đúng. Bạn không thể nào giữ được nỗi buồn, nếu bạn nghe giọng cười của anh Khê một khi đã cất lên.
Trong lúc chúng tôi nói lén anh, thì anh đã bước vào với hai cây đàn, một cũ, một mới. Cây cò còn mới tinh của anh, làm bằng một thứ cây gì trắng tươi như cây thông mà anh Khê gọi là màu “bach chãng”.
Tôi vội thuật lời nói lén của người bạn khi nãy với anh Khê, anh phá lên cười một chuổi dòn tan trong lúc anh cẩn thận đặt hai cây đờn xuống ván. Bỗng anh Khê hạ thấp giọng:
“Không biết giờ này, vợ tôi đã chạy ra tiền đi chợ chưa? Nhà chỉ còn có vài chục bạc, tôi đã lấy hết đi mua đờn từ sáng tới giờ”. Nói xong, anh lại cười, để cho chúng tôi… ra nước mắt!
- Anh mua đờn làm gì mà gấp đến phải vét cả tiền chợ?, tôi hỏi.
Anh Khê cho hay rằng anh định đem hai cây đờn đó sang Pháp đờn bậy chơi. Nhứt là trong lúc ở dưới tàu, linh-đinh trên mặt biển gần trót tháng.
Anh lại cho biết, cây cò anh mua ở Cầu ông-Lãnh, còn cây tranh, anh xin của cậu anh đem về chữa sửa lại mấy chỗ hư hỏng, vì nó đã cũ kỹ.
-  “Chưa đủ, anh phải đem theo một cái lon, hay cái nón lá xe kéo để người ta bỏ xu, khi anh ngồi đờn nơi mấy cái nhà ga xe điện”. Một người bạn nói đùa.
- “Mua thêm cây độc huyền và một cuốn thơ Lục vân Tiên”.
Tất cả các bạn đều rộ lên cười.
Sau khi cười dứt, anh Khê nghiêm trang nói:
“Được chớ! Nếu ngày nào thấy cần, tôi sẽ làm thế".
- Anh không mắc cở à? Tôi hỏi.
Khê nhìn tôi với đôi mắt trách thiện:
“Tôi làm gì mà mắc-cở? Nghèo, đi đờn mướn, hát dạo, kiếm tiền ăn, học, nếu nghề ấy có thể giúp tôi học”.
Sau khi dùng cơm xong, anh Khê đờn cho chúng tôi nghe trước khi anh lên đường.
Tối hôm ấy, một bác sĩ ở Cholon lại tiễn anh Khê và thết luôn chúng tôi một bữa cơm Tàu. Bộ đồ “vía” của anh Khê để dành mặc trong lúc đặc biệt, được nó trang hoàng vào người anh, huê dạng như… một chánh khách… chầu rìa.
Sau khi ăn uống xong, chúng tôi đón xe “tắc-xi” về Saigon. Trước khi lên xe, anh Khê kê miệng vào tai H… nói nhỏ: “Ê! H trả tiền xe nhé”.
Cách đó vài tháng, chúng tôi được đọc một bức thơ của anh Khê từ Pháp gởi về cho một người bạn tên H. Trong ấy, có một câu đã làm cho tôi cảm động và ghi nhớ mãi: “H… ạ! Sự sống của tôi ở Paris lúc nầy nguy ngặt quá vì số tiền bà gia tôi dự bị để gởi lần cho tôi tạm lúc đầu đã bị gián đoạn, do một việc rủi-ro bất ngờ. Lắm lúc, tôi muốn thực-hành lời nói đùa của các bạn trong buổi tiệc tại nhà P. là đem đờn kéo dạo ở mấy nhà ga. Nhưng bạn ạ! Chỉ vì một lẽ là tôi đã lên diễn đàn mấy lần trong những cuộc lễ của Tổng Hội Sanh Viên V.N tổ chức. Nếu tôi ra ngồi đờn hát như thế, sợ mất thể diện cho Hội. Còn về cá nhân tôi, tôi không ngại gì việc ấy…”
Hôm nay, tôi không ngờ hai cây đờn mà gia-đình anh Khê đã nhịn ăn một ngày để lấy tiền mua nó, nó đã giúp anh Khê đoạt giải nhì về âm nhạc cổ Việt Nam trước mấy ngàn đại-biểu sanh viên quốc-tế ở Budapest.
........../.



Doanh nghiệp & quyền sở hữu tài sản



https://www.facebook.com/manh.quan.14/posts/10153419690929824

*******



Đây là bài phát biểu của TS luật Phạm Duy Nghĩa tại hội thảo về DN & quyền sở hữu tài sản (25.6). 

********


"Một bộ phận DN tư nhân phát triển rất tốt- tốt không thể tin được"
...Điều gì đã cản trở VN trong 20 năm vừa rồi không thể phát triển. Dân VN có thể bức xúc chỗ nọ chỗ kia, chửi bới… nhưng cơ bản là hài lòng.
Thực ra, trong 30 năm vừa rồi, mình cải cách, mình làm nửa chừng, giúp đất nước phát triển, nhưng cũng làm đất nước vướng nhiều cái do mình làm không đến nơi đến chốn.
Nền kinh tế tư nhân chia thành hai loại. một loại giàu lên rất nhanh. Ngay như điểm tin sáng nay cũng thấy, có đại gia ôm hàng trăm tỉ tiền mặt vào Phú Quốc mua đất. sự giàu có của một bộ phận tư nhân gắn bó với sân sau, với những người có quyền phân chia đất. Như vậy, có một bộ phận tư nhân phát triển rất tốt, tốt một cách không tin được. nhưng có một bộ phận tư nhân khác, tức hàng trăm, hàng ngàn DN tư nhân chết mà không chết được, teo tóp đi. Tức là loại nào mà bám vào chính quyền, quan hệ tốt, trở thành sân sau thì phát triển rất tốt, còn loại không có được những quan hệ đó rất khó. Đó là khu vực tư nhân.
Còn về DNNN thì bao nhiêu năm nay vẫn không có gì mới. Chúng ta đã nói từ mấy chục năm nay rồi. Sở hữu không rõ, thành ra nhiều anh khai thác quyền của mình để kiếm được lợi tư từ khối DNNN. Vi vậy, DNNN thích hợp với những ai nắm quyền quản trị, và can thiệp được vào khối tài sản này. Cũng có những DNNN thành công như Vinamilk, Viettel… Nhưng với Viettel tôi còn nhiều nghi ngờ lắm, nhưng ít ra là có những điểm thành công. Nhưng còn các DNNN khác thì cũng có nhiều khó khăn lắm. Những khó khăn này dẫn đến thoái vốn, bán tống bán tháo tài sản nhà nước đi. Rồi dưới chiêu bài xã hội hóa, công tư hợp doanh để phân phối tài sản công cho tư nhân cũng khá nguy hiểm.
Khu vực thứ 3 là DN đầu tư nước ngoài tư VN thì lại đang phát triển tốt, ngày càng tăng trưởng. Lập luận của chúng tôi là, hóa ra khu vực này nó không dùng luật VN mình. Tài lực, vật lực nó mang từ bên ngoài vào, thuê đất, nhân công của mình, lắp ráp ở mình rồi nó bán đi. Tài sản ở mình thì có nhiều đâu. Nếu có tranh chấp thì nó có nhờ tòa mình xử đâu, nó mang ra nước ngoài. Như vậy, thể chế của VN mình chỉ làm khổ dân mình thôi, chứ không làm khổ khu vực nước ngoài nhiều lắm. chính vì vậy, họ vay mượn từ bên ngoài, họ vượt qua được thể chế của mình. Đó là lý do giải thích vì sao khu vực FDI có thể đóng góp vào xuất khẩu lớn với lý do không vướng vào những phiền nhiễu của chế độ sở hữu trong nước. 
Bây giờ cải cách thế nào? Nếu mà đất nước nói rõ cái gì của ai thì đã khác. Chỉ đơn giản thế thôi chứ có gì đâu mà phải nghĩ ngợi cho nhiều. Chẳng hạn như lô đất này ở trên địa bản của VCCI, thì chủ của nó là cái tổ chức ấy, tổ chức ấy nó không thích thì nó bán, nó cho thuê. Như vậy sẽ rõ chủ sở hữu của nó là ai. Nếu điều này xảy ra thì nó sẽ mạnh dạn hơn chút nữa đối với sở hữu toàn dân.
Hơn 10 năm trước đây, chúng tôi đã từng nói có một ý rằng: sở hữu toàn dân là cái ý chí chính trị. Nhưng khái niệm ấy không dùng được, ko có ý nghĩa về pháp lý. Nó phải có chủ thể rõ ràng. Lấy ví dụ, HN hay TP.HCM là một pháp nhân. Nó là pháp nhân thì nó có đất, cây… khi cây đổ vào oto của tôi thì tôi có thể kiện ông. Như vậy, sở hữu toàn dân như là một vòng kim cô. VN mình phải làm như TQ năm 2007 khi có luật về vật quyền. 
Sở hữu toàn dân rất có lợi cho những người biến từ ao ruộng, miếng đất đáng giá cân thịt lợn thành bao nhiêu cây vàng. Cái lợi ấy chạy hết vào túi của những người đó, nhà nước chẳng thu được đồng thuế nào, vì phần lớn sẽ nằm trong tay những người có quyền quyết định đối với những lô đất đó. Thứ 2, vì thuộc về toàn dân, thuộc quyền nhà nước nên xảy ra nhũng nhiễu, hạnh họe người ta. Nếu rõ ràng sở hữu thì phải thương lượng. vì không rõ sở hữu nên nay anh anh thu hồi, mai anh chuyển đổi. Những người đó giàu lên rất dữ nhưng nó làm cho DN không dám đầu tư lớn, thể chế sở hữu không chắc chắn thì ko ai dám đầu tư.
Rất nhiều đại gia Vn bây giờ đang bán tài sản cho nước ngoài. Đây cũng là điều cảnh báo cho những nhà làm chính trị tại VN. Khi những đại gia này làm ăn đến mức nào đó, người ta sẽ chết. nên người ta bán đi.
Ngoài ra còn có những loại sở hữu thông qua hợp đồng. chẳng hạn có người sở hữu biệt thự ở Vũng Tàu, cho thuê 2 tuần/lần. thì có nhiều sở hữu thông qua hợp đồng với những thời hạn khác nhau. Người ta sẽ sáng tạo ra đủ thứ sở hữu. đáng ra luật pháp phải đảm bảo sự tự do đó, và dùng hệ thống tòa bảo vệ những điều đó. 
Sở hữu nó không chắc chắn.
Thứ 3, giả sử một người làm ăn tồi, vỡ nợ, thì tài sản đó phải nhanh chóng chuyển sang tay chủ nợ. chẳng hạn như một ngày đẹp trời, OceanBank, Ngân hàng Xây dựng sẽ chuyển sang cho anh khác. Nên luật phá sản là cái roi rất dữ đe nẹt những anh làm ăn dở. Nhưng mình chưa bảo vệ được những chủ nợ.
Nhưng vấn đề sở hữu ở đất nước mình chưa ai dám thảo luận rộng, sâu. Ý thức hệ như một rào cản, những người lãnh đạo có vẻ không vượt qua được điều này. Giới nhà giàu có được quyền lợi từ cái đó cũng không muốn đổi, còn những thành phần khác muốn đổi thì tiếng nói không mạnh.
Bây giờ, nhà nước muốn lấy đất đai của dân thì khó hơn một chút, giá thì do nhà nước đề ra, dân mất đất thì có thể khiếu nại, tố cáo… Thế thì vòng vo tam quốc nhưng mình có chữa được luật đâu. Hôm nay mình có thể nói mạnh hơn để cố gắng 20 năm sau để con cháu mình nó được cái là, cái nhà của nó là của nó, không phải của nhà nước, nhà nước muốn lấy, thu hồi thì phải thương lượng, mua với giá đàng hoàng, chứ không thể thu hồi không.



...../.


Già đầu còn mê nhạc sến



Già đầu còn mê nhạc sến




Hồi nhỏ tôi mơ làm…kép cải lương. Ước mơ “khủng” này không xuất phát từ giọng ca đầy “tiềm năng” của tôi mà đơn giản vì… tiền. Một thằng nhóc 8- 9 tuổi mơ số tiền lớn cỡ cát xê danh ca Út Trà Ôn thì hơi không bình thường. Nhưng đó là nguyên nhân gần, chứ nguyên nhân sâu xa là tôi bị nhiễm cái máu giang hồ lục tỉnh.

Vũ Thế Thành ( tuyển tập ” Những thằng già nhớ mẹ”)



https://thanggianhome.wordpress.com/2013/09/16/gia-dau-moi-me-nhac-sen/





********



“Người từ ngàn dặm về mang nỗi sầu…”
          (Thu sầu- Lam Phương)













Coi cải lương thì tôi có cơ hội đi ”ăn theo” mấy bà chị, nhưng xem xi nê, dù xoay sở  cách mấy tôi cũng đành phải coi… cọp. Tôi thường  lê la ở rạp Văn Cầm gần cầu Kiệu, thấy  anh chị nào quởn quởn là lẩn theo như em út  vào xem ké. Giao du với đám nhóc gần đó, tôi cũng biết thêm vài mánh xem cọp, chẳng hạn chỉ cần mua một vé, một thằng vào trước, rồi lẩn ra góc rạp đưa vé đã xé cho thằng khác, có sẵn cái cùi vé vất đi, dán sơ xịa vào, rồi tỉnh bơ chìa cho ông soát vé vào rạp, rồi lại tiếp tục tuồn vé cho thằng sau….
Trót lọt vài lần, tôi về xóm, họp bè bạn, hãnh diện tuyên bố trưa chủ nhật này sẽ dẫn chúng đi xem phim Ben Hur với chiếc vé…thần. Cả bọn hào hứng, bàn tán, và ngưỡng mộ. Buồn thay! Một thằng em với điệu bộ lúng túng của kẻ phạm tội lần đầu đã làm hỏng chuyện, không qua mặt nổi ông soát vé ngờ nghệch nhất. Thế là cả lũ bị điểm mặt từng tên, thất bại ê chề…
Trưa chủ nhật nằm chèo queo trên căn gác gỗ, gặm nhấm nỗi hờn quê độ với bè bạn, ê ẩm cả người. Tôi vớ đại tờ báo “Kịch Trường” của bà chị, đọc qua loa để xua đi nỗi buồn. Mắt tôi chợt sáng lên khi đọc thấy tin Út Trà Ôn vừa ký contra ba bốn chục vạn gì đó với một gánh hát. Trời đất ! Vé xi nê chỉ có 3 đồng, và như điện xẹt, tôi ư ử vài câu vọng cổ, rồi bỗng mơ mộng mình thành kép hát cải lương mà không cần biết hò xự xang xê cống ra sao, cũng chẳng cần biết giọng ca mình là cái thá gì. Có tiền, tôi sẽ bao cả bọn đi xem xinê, không chỉ một lần mà nhiều lần, bao cả bè bạn bà con của chúng luôn, sẽ mua đậu phộng da cá mang vào rạp ăn vặt, mua cả hạt é, xi rô đá nhận để giải khát,… Cứ thế và cứ thế tôi chìm vào giấc ngủ trưa với giấc mơ hào hiệp.
Cải lương dính dáng với tuổi thơ tôi như vậy đó, chẳng yêu chẳng ghét. Nó như một chiếc cầu nối để tôi mơ mộng nhiều thứ.
Năm tháng trôi qua, ở cái tuổi xem xi nê không còn hào hứng đứng dậy vỗ tay nữa, tôi xoay qua nghe nhạc lãng mạn. Thời sinh viên ai chẳng uống cà phê nghe nhạc, mà nghe nhạc gì mới được. Phải là nhạc cổ điển, nhạc tiền chiến, nhạc trữ tình, lời lẽ ẩn dụ , êm ái như thơ,… Cái gout nhạc ngon lành này đã vô tình (?) vạch ra một ranh giới mù mờ giữa cái gọi là nhạc “hàn lâm”, và phía kia là nhạc sến. Một đàng là của giới có học, thưởng thức điệu nghệ. Đàng kia của giới bình dân, lời lẽ giản dị, phơi bày, âm điệu dễ nghe, dễ hát, thường là điệu Bolero, Rumba, Habanera,..
Chữ “sến” hàm ý chê bai diễu cợt một hình thức bày tỏ nào đó: “ Thằng này ăn mặc“sến” quá !”, và người ta cũng có thể nói: “ Thằng này ăn mặc “cải lương” quá!”. Theo cách hiểu đời thường, chữ “sến” đồng nghĩa với “cải lương”. Đụng tới “cải lương” là tôi thấy…phiền, dù sao đó cũng là ký ức của một thời hào hiệp. Nhạc sến và cải lương có quan hệ mật thiết, chẳng phải người ta nói là tân cổ giao duyên đấy sao! Tôi không yêu cũng không ghét cải lương hay nhạc sến. Nói đúng ra, hồi đó tôi mơ hồ thấy nhạc sến cũng không tệ, chỉ có điều không dám nói ra điều đó với ai.



Những năm sau 75 lắm chuyện đổi đời. Một  buổi khuya lạng quạng về nhà  trong cơn say, , tôi chợt nghe văng vẳng, giọng hát của ai đó:
“ … Có người con gái buông tóc thề,
Thu về e ấp chuyện vu quy…”

Bài hát đúng là sến, giọng hát cũng sến, nhưng đã làm tôi ngẩn người… Cái âm u kinh viện của đống sách triết học, chỉ muốn với tay lên cõi trên, khiến tôi thờ ơ với  chút tâm tư giản dị và hết sức đời thường của một thiếu nữ.  Chợt nhớ đến đám bạn, sau 75, bỗng nhiên ào ào lấy vợ lấy chồng để gọi là « thích nghi với tình thế », hay chờ ngày ra đi. Con hẻm nhỏ ngoằn nghèo còn đọng những vũng nước mưa.  Như vừa thấm thía ra điều gì đó, tôi dừng chân dựa tường nghe đến hết bản nhạc : « …Có ai ngồi đếm mùa nhung nhớ, nỗi niềm đầy lại vơi, mỗi mùa tiễn đưa một người … ». ( Nỗi buồn gác trọ – Mạnh Phát (?)
« Nỗi buồn gác trọ » làm tôi liên tưởng đến một bản nhạc khác ( không nhớ tựa đề), lõm bõm vài câu thế này : « … Em biết thân em phận gái nghèo hèn, mà lỡ yêu thương ai rồi, cầm bằng như áng mây trôi… ». Chuyện tình tan vỡ vì thân phận giàu nghèo, giai cấp có đầy ở trong cuộc sống này, và  nỗi đau được bày tỏ qua tiếng nhạc bằng ngôn ngữ đời thường dù hơi thiếu chất thơ một chút, thì liệu có nên lãnh đạm chỉ vì nó là nhạc sến ?
Nhạc Việt nhiều khi nghe hay là do ca từ.  Ca từ trong nhạc Trịnh Công Sơn cứ ngắt câu chấm xuống hàng là thành bài thơ. Nhạc Việt có chất thơ, có vần có điệu, có lẽ do ảnh hưởng ca dao hay hát ả đào chăng ? Vần điệu của ca từ có thể đưa đến ý, đến nhạc, để rồi vần điệu đẻ ra nỗi lòng, chứ chưa chắc nỗi lòng đẻ ra vần điệu. Sự trộn lẫn này khó bóc tách.  Nếu nghe nhạc không lời, mà trước đó chưa hề biết lời của bản nhạc, thì nhạc Việt nghe hơi… khó một chút. Nhạc và lời cấu thành bản nhạc khó tách rời.
Nhạc Tây hình như thiên về nhạc hơn lời, và không phải bản nhạc nào của Tây cũng có ca từ hay như bài Sacrifice của Elton John (lời  B. Taupin) hay bản Papa của Paul Anka. Ca từ của nhạc Beatles hay Abba nếu dịch ra tiếng Việt thì nghe chán phèo, nhưng âm điệu của nó lại nghe rất hấp dẫn, chả thế mà nó được cả triệu triệu người trên thế giới ưa chuộng, hẳn là vì nhạc chứ không phải vì lời.







Ca từ trong nhạc sến mộc mạc, giản dị, cũng trời trăng mây nước, nhưng không nhiều ẩn dụ, nghe là hiểu, khỏi cần suy đoán. Và trong tình huống cụ thể nào đó, những lời lẽ đơn sơ đó ngấm ngay vào tâm hồn người nghe, mà khỏi cần tưởng tượng hay suy diễn thêm cho phiền phức.
Tôi được mời đi dự đám cưới. Chú rể là Việt kiều, lúc đó trạc ngoài 40, không biết đã qua đò lần nào chưa,  không tiện hỏi.  Tôi bên nhà gái, nên vào bàn tiệc kính nhi viễn chi, ăn uống từ tốn, nói năng từ tốn cho phải phép. Tiệc cưới thì ồn ào, tưng bừng, hát hò,… khỏi nói. Cô dâu chú rể lăng xăng bàn này bàn nọ. Gần cuối bữa tiệc, những người ở bàn bên cạnh, chắc đều là bạn chú rể, đứng lên, nâng ly và hát, cả cô dâu chú rể cũng hát, không đàn không trống, họ hát theo nhịp cái muỗng gõ vào ly :
« ….Một mai qua cơn mê, xa cuộc đời bềnh bồng tôi lại về bên em… »
Họ hát đồng ca, nhớ gì hát nấy, nương lời nhau mà hát. Tôi có cảm tưởng như một người trong cặp uyên ương này, hoặc cả hai, vừa vượt qua sóng gió nào đó để đi đến ngày hôm nay. Bỗng nhiên tôi thấy hào hứng buột miệng hát theo :
« …Tình người sau cơn mê vẫn xanh, dù bao tháng năm đau thương dập vùi…»
Một kiểu cách chúc mừng đám cưới ý nghĩa quá! Lời ca giản dị, không công thức, không sáo ngữ, không một ban nhạc hoành tráng nào, và không một siêu ca sĩ nào theo kịp…
Ngôn ngữ điêu luyện nhiều khi che đậy một cái gì đó không thực, không chừng gọi đó là « sến trí tuệ” » cũng được.
Thú nhận mình mê nhạc sến chẳng phải là chuyện dễ dàng. Cái sĩ diện (hão) của thằng tự cho mình là trí thức coi vậy chứ bự lắm. Có lần ngồi nhâm nhi cà phê với một bậc đàn anh, thuộc loại tài hoa, trí dũng song toàn, tôi buột miệng : «  Khi người yêu tôi khóc » của Trần Thiện Thanh nghe cũng không đến nỗi… » . Ông huynh trưởng phán lạnh tanh : «  Tớ không hiểu vì sao Sĩ Phú lại hát bản này » . Tôi..tịt ngòi. Miếng trầu đưa ra chưa kịp quết vôi, không có duyên để chia sẻ đề tài này. Câu chuyện cũng hơn 30 năm trôi qua rồi…
Những năm sau này đi hát karaoke với bè bạn, tôi thường chọn nhạc sến. Bọn chúng dĩ nhiên chẳng bỏ qua cơ hội để chế diễu. Tôi cũng… ngượng, mặc dù đã cố giải thích (để chữa thẹn) rằng, chẳng hạn « …Nếu vì tình yêu, Lan có tội gì đâu, sao vướng vào sầu đau… » là câu hay nhất của bài hát « Chuyện tình Lan và Điệp ».
Thời gian làm tôi chai mặt, lì đòn hơn để khẳng định rằng mình thích nhạc sến,  và cũng thời gian, khoảng hơn chục năm sau, tôi thấy bạn bè tôi, những kẻ từng « mỉa mai » tôi về nhạc sến, mỗi lần đi hát karaoke chúng lại chọn nhạc sến. Càng xỉn càng hát nhạc sến, hát không giấu diếm, hát say mê, hát như thể chỉ còn cá nhân chúng nó trên đời. Hình như khi xỉn người ta quên mất mình đang mặc áo vest đeo cà vạt.



Tôi chưa hề ngộ ra rằng nhạc sến hay. Đối với tôi, cải lương hay nhạc sến là cả một khoảng trời ký ức không thể chối bỏ, đã nằm sẵn đâu đó trong tiềm thức rồi, khỏi cần phải  ngộ hay chưa ngộ. Nhạc hiệu của chương trình tuyển lựa ca sĩ mỗi sáng Chủ nhật tại rạp Quốc Thanh : « Trời hôm nay thanh thanh, gió đưa cành mơn man tà áo… », đã lâu lắm rồi không nghe, mà sao vẫn nhớ, nhớ cả lúc đó mặc quần xà lỏn, cầm khúc bánh mì, vừa gặm, vừa nghe radio, vừa hát theo cơ mà … Thế thì việc gì tôi phải úp úp mở mở, nửa phủ nhận, nửa thừa nhận. Đó là hành trình vượt qua nỗi…  « sợ hãi », nói thẳng ra là vượt qua cái hèn, cái thể diện dỏm của một thằng trí thức dỏm. Không dám trung thực với chính mình không gọi là dỏm thì gọi là gì ? Vấn đề là thời gian, sớm hay muộn công khai thừa nhận giá trị vốn có của nhạc sến. Như thế tôi vẫn còn thua xa những người thích nhạc sến từ thưở đầu đời cho đến hết…đời.
Tình huống dưới đây là giọt nước tràn ly khiến tôi nhảy vọt qua nỗi « sợ hãi ».
Cách nay đã lâu, tôi đi dự đám tang của người thân. Đội kèn Tây được mời đến để thổi nhạc vào lúc di quan đã chơi bài « Trở về cát bụi » của Lê Dinh. Bản này tôi đã nghe sơ xịa ở đâu đó rồi. Hôm đó ban nhạc đang chơi bỗng nhiên dừng thổi và cả chục tay nhạc công bỗng cất tiếng hát.
« … Sống trên đời này, người giàu sang cũng như người nghèo khó.
Trời đã ban cho, ta cám ơn Trời dù sống thương đau
Mai kia chết rồi, trở về cát bụi giàu khó như nhau
Nào ai biết trước số phận ngày sau ông trời sẽ trao… »

Giọng hát ồm ồm của mấy ông thổi kèn nghe như tiếng loa trầm rách màng, vậy mà tôi nghe như mới, nghe như nuốt từng lời, tưởng như người quá cố đang tâm tình với mình trước giờ vĩnh biệt.
« … Người ơi xin nhớ cát bụi là ta, mai này chóng phai… »

Trịnh Công Sơn cũng có bản nhạc « Cát bụi » với lời lẽ hoa mỹ đầy tính triết học hơn nhiều, nhưng tôi phải thu hết can đảm để thú nhận rằng, bài « Trở về cát bụi » của Lê Dinh đã thấm vào người tôi nhiều hơn. Bây giờ nghe lại, vẫn thấy phê, vẫn thấy gần gũi trong từng cách ứng xử của đời người.
Người thích nhạc sến cũng nhiều, người xem thường nó cũng không ít, dù ngấm ngầm không nói thẳng ra. Nhưng cho dù thế nào, có một đề tài không ai dám cà khịa xem thường, đó là những bản nhạc nói về mẹ. Mấy bà mẹ đơn giản như dòng sữa, là lời ru, bóng mát, là vườn rau, trái dừa,…Nói triết lý cao siêu quá mấy bà mẹ không hiểu, mà có hiểu cũng không thấy thoải mái, vì lòng mẹ đầy bản năng, đơn sơ như con gà mẹ xù cánh cho lũ gà con ẩn nấp trước diều hâu. Bài « Lòng mẹ » của Y Vân, vì vậy  vẫn được xem là bản nhạc về mẹ kinh điển được mọi người ưa thích, kể cả những…bà mẹ cũng thích bài đó, chứ chưa hẳn đã là « Huyền thoại mẹ » hay « Ca dao mẹ » của TCS.
Hãy nghe một anh chàng xa nhà, Tết không về quê được,  nhớ mẹ thế này :
« … Giờ đây chắc mẹ già tóc bạc nhiều
Sớm chiều vườn rau vườn cà,
Mẹ biết nhờ cậy vào tay ai?… »
(Mùa xuân của mẹ- Trịnh Lâm Ngân)
Nghe cái giọng rên rỉ là biết thằng con này…dóc tổ. Y mà có về được, ôm bà già một cái, trình diễn cái màn quét nhà, rồi thì mắt trước mắt sau lẻn đi chè chén với chúng bạn. Y mà có bạn gái nữa thì coi như xong…Biền biệt ! Mà bà mẹ cần gì điều đó, thấy thằng con về là mừng quýnh lên, rờ tay rờ chân nó, thấy còn lành lặn đầy đủ là thiếu điều vái Trời vái Phật rồi, trông mong gì thằng con rớ tới vườn rau vườn cà…
Không về được thì thằng con hứa hẹn tiếp :
« …Dẫu gì rồi con cũng về
Chỉ bên mẹ là mùa xuân thôi… »

Tâm sự của thằng con nghe thật sến, thật não lòng, mà sao như tìm thấy tâm trạng của chính mình trong đó…
Mẹ tôi mất. Năm ngoái là cái Tết đầu tiên không có bà. Căn nhà ở Sàigòn quá nhiều ký ức quen thuộc làm tôi… ngại. Giao phó hết việc nhà, tôi chuồn lên nhà Đà Lạt một mình. Tết nhất khỏi đi khách và cũng khỏi tiếp khách, nằm nhà đọc sách cho khỏe.
Tối giao thừa, một đĩa trái cây, vài cành hoa ngắt dưới vườn, thắp nén nhang trên bàn thờ mẹ….Thế là đủ. Tôi mở nhạc, nhâm nhi ly rượu vang đón giao thừa. Cũng chỉ là những bản nhạc xưa thôi, có bản nghe quen, có bản lâu lắm rồi mới nghe lại, và đến bản  « Đường xưa lối cũ »
«  …Đường xưa lối cũ, có tiếng tiêu, tiếng tiêu ru lòng ai… »
Bà ca sĩ Kim Anh này cũng lạ, càng già giọng hát càng ấm, càng buồn… Bài hát của Hoàng Thi Thơ có đoạn :
«… Khi tôi về, nghẹn ngào trong nắng,
Tưởng gặp mẹ tôi rưng rưng đứng đón con về,
Nào ngờ mẹ tôi ra đi bên kia cuộc đời
Không lời từ ly cuối cùng trước khi phân kỳ
Chạnh lòng thương nhớ… »  

Hai chữ  « chạnh lòng» bỗng dưng chùng xuống, thả ra thật nhẹ, nhẹ như hơi thở… đã làm « người hùng » ngã ngựa : nước mắt rơi đêm giao thừa.
Ca sĩ Hương Lan, trong một cuộc phỏng vấn về nhạc sến đã bực bội : « …Cũng như từ “cải lương” vậy, đó là một loại hình nghệ thuật, sao mọi người có thể tùy tiện sử dụng mỗi khi muốn chê cái gì đó (sao sến quá, sao cải lương quá). Tôi xem đó là sự chọc ghẹo, coi thường và nhục mạ rất tệ hại, nếu không nói là vô văn hóa… »
Bà Hương Lan à, xin đừng nóng… Nhạc sến hay cải lương hiểu theo nghĩa tốt đẹp thì nó vẫn tốt đẹp. Vàng thiệt đâu sợ lửa. Nhạc sến cũng như nhạc « hàn lâm », có bài hay, có bài không hay, tùy theo cảm nhận của mỗi người.





Nhạc sến là vậy đó, nhưng ca sĩ sến thì khác. Ca sĩ sến cho dù có  hát nhạc « hàn lâm » thì vẫn là…sến (thứ thiệt), khi mà giọng hát phải cố gào thét cho khàn ra. Cung cách giả tạo như thế không thể bày tỏ cho nỗi lòng thực. Tương tự, « Dạ cổ hoài lang » mà được hát với giọng opera thì chắc trời…sập. Chưa ai qua nổi Hương Lan với giọng hát da diết ở bản nhạc này cả.  
Dạo gần đây một số bậc thức giả đã đánh giá nhạc sến một cách tích cực hơn, ra cái điều thông cảm với quần chúng đám đông, nhưng vẫn chỉ là cái nhìn từ trên xuống. Xin lỗi ! Nhạc sến có giá trị riêng của nó, mà không cần đến bất kỳ một chiếu cố nào cả. Âm  nhạc cần có sự đồng cảm, từ người sáng tác, người chơi nhạc, người hát và người nghe. Một khi bắt nhịp được với lời ca tiếng nhạc của nhau, thì sự chia sẻ có thể bắt đầu.
Âm nhạc là món ăn (tinh thần), vấn đề là có hợp khẩu vị hay không mà thôi. Gà tây nhúng sữa, kẹp phô mai đút lò chắc gì đã bắt mồi hơn cá lóc nướng trui ?
.

Vũ Thế Thành



......./.