ÉM NHẸM THÔNG TIN DỰ ÁN BAUXITE TÂY NGUYÊN ..?



TS NGUYỄN QUANG A: 


PHẢI TRUY CỨU NHỮNG NGƯỜI 
ÉM NHẸM THÔNG TIN DỰ ÁN 
BAUXITE TÂY NGUYÊN-KHIẾN 
ĐẤT NƯỚC 
MẤT HÀNG CHỤC NGÀN TỶ ĐỒNG ?

********

http://phamvietdao3.blogspot.com/2013/02/can-phai-truy-cuu-nhung-nguoi-em-nhem.html








....../.



Hứa hẹn của Mùa Xuân Á Rập



Hứa hẹn của Mùa Xuân Á Rập




Trần Ngọc Cư dịch

 (Trong phát triển chính trị, không thành quả nào mà không gian khổ)

Người ta dễ dàng cảm thấy bi quan về Mùa Xuân Á Rập, nếu chỉ nhìn vào tình trạng nhiễu nhương hậu cách mạng mà vùng Trung Đông đang trải qua. Nhưng các người chỉ trích quên rằng các nền dân chủ mới mẻ cần phải có thời gian để vượt qua quá khứ độc tài của chúng. Như lịch sử phát triển chính trị tại các nơi khác cho thấy, nhất định tình hình sẽ trở nên tốt đẹp hơn.
 SHERI BERNARD là Giáo sư Khoa Chính trị tại Barnard College, Đại học Columbia, Hoa Kỳ.
                                                                              Foreign Affairs


Chỉ trong vòng hai năm tiếp theo sau sự bộc phát của cái gọi là Mùa Xuân Á Rập, nụ hồng đã vội hết thời xuân sắc. Các chế độ dân chủ non trẻ tại Bắc Phi đang phấn đấu vất vả để tiến lên hay thậm chí để giữ được quyền kiểm soát, những cuộc đàn áp của chính phủ tại vùng Vịnh Ba Tư và những nơi khác đã chặn đứng tiến trình tự do hóa, và Syria ngày càng lún sâu vào một cuộc nội chiến ác liệt đang đe dọa châm ngòi toàn khu vực Trung Đông.

Thay vì có một sự hân hoan đều khắp về sự kiện thể chế dân chủ cuối cùng đã đến với vùng này, bây giờ người ta lại nghe trỗi lên chủ nghĩa bi quan về nhiều trở ngại trên con đường tiến tới dân chủ, nỗi sợ hãi về những gì sắp xảy ra, và thậm chí cả lòng hoài cổ công khai về trật tự của chế độ độc tài trước đây. Tháng Sáu vừa qua, khi quân đội Ai Cập giải tán Quốc hội và cố đẩy lùi lịch sử bằng cách phá rỗng chế độ tổng thống dân sự, nhà bình luận đối ngoại chính của tờ The Wall Street Journal đã nửa đùa nửa thật, “Ta hãy hy vọng chế độ dân sự này có thể vận hành tốt” (Thật ra nó không được như vậy). Và âm mưu giành quyền lực [từ tay quân đội] của Tổng thống Ai Cập Mohamed Morsi vào tháng Mười một đã làm cho việc tiếc nuối chế độ cũ trở nên bình thường. 

Mặc dù chủ nghĩa hoài nghi này là điều có thể đoán được, nhưng nó cũng sai lầm không kém. Mỗi đợt dân chủ hóa trong thế kỷ vừa qua – sau Thế Chiến I, sau Thế Chiến II, trong cái gọi là làn sóng dân chủ thứ ba vào những thập niên gần đây – đều được tiếp nối bằng một giai đoạn thoái trào, đi kèm với một thái độ hoài nghi phổ biến về khả năng phát triển và thậm chí cả sự đáng được thèm muốn của việc quản trị quốc gia theo đường lối dân chủ tại các vùng liên hệ.

Ngay sau khi tiến bộ chính trị khựng lại, một phản ứng bảo thủ liền diễn ra, trong khi các người chỉ trích lên tiếng ta thán về tình trạng nhiễu nhương của thời đại mới và tiếc nuối tình trạng được cho là ổn định và an ninh của kỷ nguyên độc tài trước đó. Người ta hy vọng rằng trình độ dân chúng ngày nay sẽ khá hơn – rằng họ sẽ hiểu rằng phát triển chính trị thật ra là như thế đấy, hiện nay cũng như trong quá khứ, ở phương Tây cũng như tại Trung Đông, và rằng con đường duy nhất trước mặt là phải lao tới tương lai chứ không quay đầu trở lại quá khứ. 
Sai lầm đầu tiên mà các người chỉ trích vấp phải là, họ coi các chế độ dân chủ mới mẻ như những tấm bảng chưa hề được viết lên, bất chấp những động lực và vận mệnh được thừa hưởng hơn là được lựa chọn.

Tình trạng nhiễu nhương, bạo động, và tham nhũng được họ coi như là bằng chứng của sự rối loạn chức năng có sẵn trong bản thân của thể chế dân chủ, hay của sự ấu trĩ hoặc phi lý của một khối dân chúng đặc thù, chứ không phải là những căn bệnh của chế độ độc tài trước đó.

Bởi vì các chế độ độc tài vốn không có chính nghĩa trước nhân dân, chúng thường dùng thủ đoạn để vận dụng và đào sâu hố ngăn cách trong xã hội nhằm chia rẽ các thành phần có tiềm năng chống đối và tạo hậu thuẫn cho chúng từ các nhóm được ưu đãi. Vì thế khi tiến trình dân chủ hóa diễn ra, mối nghi kỵ và thù ghét lẫn nhau bị dồn nén lâu ngày thường bùng nổ. Và vì các chế độ độc tài cai trị bằng mệnh mệnh chứ không phải bằng sự đồng thuận, chúng đàn áp các thành phần bất đồng chính kiến và ngăn chặn việc thành lập các cơ chế chính trị và xã hội nhằm giúp người dân phát biểu và thể hiện đòi hỏi của mình một cách bình thường.

Do đó, người dân trong các chế độ dân chủ mới mẻ thường bày tỏ những bất bình của mình một cách tùy tiện và thiếu tổ chức, bằng một mạng lưới choáng ngợp gồm nhiều đảng phái, bằng luận điệu và hành động cực đoan, bằng các cuộc xuống đường và thậm chí đánh nhau. 

Tất cả những động cơ này đã biểu hiện tiếp theo sau Mùa Xuân Ả Rập. Tại Ai Cập, chẳng hạn, các chế độ Anwar al-Sadat và Hosni Mubarak trước đó đã không cho phép các chính đảng có thực chất hay các tổ chức dân sự độc lập phát triển; sự kiện này giúp ta hiểu được tại sao Hồi giáo (Islamism) là lực lượng chính trị có quá nhiều ưu thế hiện nay. Trước đây, các tổ chức tôn giáo vốn đã nằm trong số những diễn đàn duy nhất, qua đó người dân trung bình có thể bày tỏ nguyện vọng hay tích cực tham gia các sinh hoạt trong cộng đồng của họ. Vì thế khi Mubarak bị lật đổ và sự chuyển đổi chính trị diễn ra, thì chỉ một mình các lãnh đạo Hội giáo có sẵn cơ sở hạ tầng để huy động hậu thuẫn một cách hiệu quả. Tình trạng kém phát triển của các tổ chức xã hội dân sự và chính trị, vì thế, có nghĩa là một khi chế độ độc tài tan rã, sẽ không mấy cơ chế có đủ khả năng nói lên những bất bình của người dân, huống hồ đáp ứng được chúng. Điều này giải thích sự thiếu vắng các đảng phái phi-Hồi giáo có thực lực hiện nay và giúp ta hiểu được khuynh hướng xuống đường của người Ai Cập để bày tỏ những đòi hỏi và nỗi bất bình của mình. Nước cờ của Tổng thống Morsi vào tháng Mười một vừa qua, nhằm tránh né việc duyệt xét tính hợp hiến (judicial review) của các sắc lệnh mà ông đưa ra, phản ánh sự hoài nghi rộng lớn trong khối Hồi giáo đối với hệ thống toà án Ai Cập, một phần vì thiếu một chế độ pháp trị đáng tin cậy trong thời đại Mubarak, cũng như tình trạng các lực lượng chống Mubarak hiện không thể hợp tác với nhau phản ánh lịch sử phân hóa tai hại của họ dưới chế độ độc tài trước đây. Như Ahmed Mekky, Bộ trưởng Tư pháp, đã nói đến cuộc tranh cải về việc duyệt xét tính hợp hiến nói trên như sau: “Tôi qui trách nhiệm cho cả nước Ai Cập, bởi vì họ không biết cách đối thoại với nhau” – nhưng đây chính là ý đồ của Mubarak. 
Những chuyện tương tự như vậy được nói về các chế độ độc tài Trung Đông khác. Tại Iraq, Saddam Hussein đã cố tình tạo nhiều mâu thuẫn trực tiếp giữa các bộ phận dân chúng khác nhau như một phương cách để ràng buộc một số nhóm lợi ích nhất định vào chế độ, đồng thời làm suy yếu bất cứ tiềm năng chống đối nào. Lề thói này, cùng với việc chế độ hoàn toàn dẹp bỏ các sinh hoạt chính trị và xã hội công dân bình thường, có nghĩa là Iraq sẵn sàng rơi vào tình trạng bạo loạn một khi chế độ Saddam sụp đổ – một tiến trình mà chính Mỹ cũng thúc đẩy bằng cách không chịu giúp đỡ để Iraq có được một trật tự mới hữu hiệu nhằm thay thế trật tự cũ. Tại Lybia, Muammar al-Qaddafi đã cai trị bằng một chế độ độc tài cá nhân quái gở, một chế độ độc tài đã làm cho đất nước ông trở thành hoàn toàn không có guồng máy nhà nước (stateless) sau khi ông bị lật đổ, khiến chính phủ mới tại Tripoli phải rất vất vả trong nỗ lực thiết lập trật tự khắp lãnh thổ của mình. Và tạiSyria, chế độ độc tài của gia đình Assad đã dành đặc ân cho nhóm thiểu số Alawite, bất chấp quyền lợi của các cộng đồng khác, tạo điều kiện cho sự tranh chấp phe phái khi chế độ Assad tan rã. 
Ngoài việc gán cho các chế độ dân chủ mới mẻ những thứ tội của các chế độ độc tài đi trước, những người chỉ trích còn đặt ra những tiêu chuẩn thành công ở một nấc cao đến độ phi lý, hoàn toàn không có trong lịch sử. Họ giải thích tình trạng bạo động, nạn tham nhũng, sự hỗn loạn và bất lực, tiếp theo cuộc chuyển đổi chính trị, như là những dấu hiệu cho thấy một số quốc gia đặc thù (hay thậm chí toàn bộ một khu vực hoặc tôn giáo đặc thù) là không sẵn sàng chấp nhận dân chủ, như thể các thời kỳ quá độ dân chủ bình thường sẽ êm ả dẫn thẳng đến các thành tựu tự do ổn định và như thể các nước vấp ngã trên con đường tiến tới dân chủ nhất định đã mang trong mình một cái gì sai hỏng. Thật ra, chế độ dân chủ tự do ổn định thường thường chỉ xuất hiện sau các cuộc đấu tranh bạo động lâu dài, đầy những quanh co khúc khuỷu, những khởi động giả hiệu, và những con đường vòng. 
Hơn nữa, những vấn đề này không phải là một khuyết tật kỹ thuật, mà là một đặc điểm của tiến trình – không phải là những dấu hiệu cho thấy các vấn đề gắn liền với thể chế dân chủ, mà là bằng chứng cho thấy tiến trình khó khăn phức tạp của sự nghiệp phát triển chính trị, qua đó các xã hội gột rửa các tàn tích của chế độ độc tài và xây dựng các trật tự dân chủ mới mẻ và tốt đẹp hơn. Thể chế dân chủ tự do ổn định không những chỉ đòi thay đổi chế độ chính trị, mà còn đòi hỏi phải loại bỏ những di sản xã hội, văn hóa, và kinh tế của chế độ cũ. Một tiến trình này cần đến nhiều thời gian và nỗ lực, qua nhiều cuộc thử nghiệm. Lịch sử cho thấy, hầu hết các cuộc chuyển đổi chính trị ban đầu mới chỉ là bước khởi đầu chứ không phải là giai đoạn kết thúc của tiến trình dân chủ hóa – đây là điều mà lịch sử đau thương của các nền dân chủ trưởng thành của thế giới ngày nay đã chứng minh. 
NHỮNG BÀI HỌC CỦA NƯỚC PHÁP 
Hãy lấy nước Pháp làm ví dụ. Cũng như Mùa Xuân Ả Rập và các đợt dân chủ hóa toàn cầu khác gần đây, sự sụp đổ của chế độ độc tài cha truyền con nối tại Pháp năm 1789 được giới quan sát trên địa cầu hân hoan chào đón. Trong tác phẩm The Prelude (Khúc dạo đầu), William Wordsworth đã nhớ lại thời điểm này như là lúc mà toàn châu Âu “bồi hồi sung sướng/ Nước Pháp đứng trên đỉnh cao của giờ phút huy hoàng/ Và tính người như được tái sinh”. Nhưng mặc dù thế giới có thái độ lạc quan ban đầu, cuộc chuyển đổi chính trị đã nhanh chóng chệch hướng. Năm 1791, với sự tuyên bố thành lập chế độ quân chủ lập hiến, nước Pháp đã thực hiện thí nghiệm đầu tiên để tạo ra một trật tự chính trị mới, nhưng chế độ chính trị ôn hòa này đã bị cả phe phản động lẫn phe cực đoan bác bỏ. Chẳng bao lâu, phe cực đoan thắng thế, và vào năm 1793, họ hành quyết nhà vua và tuyên bố một nền cộng hoà với quyền bầu phiếu phổ thông, đồng thời cam kết tôn trọng một loạt quyền công dân và quyền chính trị rộng rãi. Sau đó, nền dân chủ hiện đại đầu tiên này của châu Âu nhanh chóng suy sụp và trở thành cái gọi là Triều đại Khủng bố (the Reign of Terror), trong đó vào khoảng từ 20.000 đến 40.000 người đã bị xử tử vì những hoạt động “phản cách mạng”. 
Lý thuyết gia chính trị Anh Edmund Burke chỉ là một nhà phê bình bảo thủ nổi tiếng nhất đã tranh luận rằng những kinh nghiệm lịch sử này cho thấy các hiểm họa của việc thay đổi chính trị một cách cực đoan và sự cần thiết phải có một giới tinh anh và các định chế chính trị để kềm hãm sự cuồng nhiệt của quần chúng. Nhưng Burke và các nhà phê bình khác đã sai lầm. Xung đột và bạo loạn tiếp theo sau Cách mạng Pháp không phải là hậu quả tất yếu của bản thân thể chế dân chủ hay của sự thiếu chín chắn về phía quần chúng Pháp; nói đúng ra, chúng phát xuất từ đường lối cai trị của chế độ độc tài trước đó. Chế độ cũ đã dựa vào một liên minh giữa nhà vua và một bộ phận rất nhỏ bé trong xã hội, chủ yếu là giới quí tộc. Để nắm được hậu thuẫn của các nhà quí tộc này, các vua Pháp đã mua chuộc họ bằng các đặc quyền đặc lợi tài chánh, gồm có lương hưu, chế độ bảo trợ [chế độ ô dù], cách đối xử đặc biệt về pháp lý, khả năng tiếp cận các cơ hội thương mại béo bở, và được miễn thuế. Hệ thống này đã cho phép dòng họ Bourbons ổn định được tình hình đất nước và bắt đầu công cuộc xây dựng một nhà nước hiện đại trung ương tập quyền. Nhưng nó tạo ra một cảm thức phổ biến trong dân chúng rằng giới quí tộc Pháp là một tầng lớp ăn bám đã rút tỉa nguồn lực quốc gia đồng thời bóc lột giới nông dân. Nói tóm lại, chế độ cũ đã tựa lên một cơ sở xã hội cực kỳ nhỏ bé, với nhà vua và giới quí tộc được gắn chặt trong một liên minh thiếu lành mạnh, một liên minh đã tạo ra sự oán ghét và xung đột giữa các tầng lớp hạ lưu và các bộ phận được ưu đãi trong xã hội. Như học giả Hilton Root nhận định, sự kiện này đã đưa đến một “xã hội bị phân hóa thành những nhóm khép kín, chỉ biết đến mình thôi” – và các thành viên của những nhóm này, như Alexis de Tocqueville trích lời một vị trong những bộ trưởng của Louis XVI, đã “không mấy liên hệ với nhau, khiến cho mỗi người chỉ nghĩ đến lợi ích riêng tư của mình, và không có một mảy may quan tâm nào đối với phúc lợi công cộng”. 
Vào nửa sau của Thế kỷ XVIII, phần lớn vì những cuộc chiến tranh tốn kém và thất bại nặng nề, nhà nước Pháp gặp phải vấn đề tài chính rất nghiêm trọng. Không muốn tăng thuế trên giới giàu có vốn được ưu đãi, chế độ phải dùng đến biện pháp vay mượn ngày càng nhiều, và vào thập niên 1780, gánh nặng nợ nần trở nên không còn chịu đựng được nữa. Vào thời điểm nhà vua rốt cuộc bị buộc phải triệu tập một quốc dân đại hội vào năm 1789 để cố gắng đối phó những vấn đề của đất nước, những xung đột vốn đã âm ỉ lâu ngày ở bên trong và ở giữa các phe nhóm xã hội-kinh tế bùng nổ công khai, và nước Pháp được đặt vào con đường dẫn đến cách mạng và tình trạng xáo trộn hậu cách mạng. 
Nếu thử nghiệm dân chủ đầu tiên của nước Pháp có thất bại đi nữa, nó cũng đã đóng góp sâu sắc cho việc hình thành sau cùng một chế độ dân chủ tự do ổn định. Về mặt kinh tế, cuộc cách mạng Pháp đã thay thế hệ thống bảo trợ [chế độ ô dù] dựa trên các tôn ti trật tự phong kiến giả hiệu bằng một hệ thống thị trường đặt cơ sở trên quyền tư hữu tài sản và quyền bình đẳng trước pháp luật. Về mặt xã hội, nó đã thay thế một xã hội được cấu trúc bởi những nhóm cha truyền con nối có chức năng khác nhau (quí tộc, nông dân, v.v.) bằng một quốc gia gồm có những công dân bình đẳng. Về mặt chính trị, nó đã thay đổi thái độ của người dân đối với quyền công dân, các quyền khác, và việc quản trị đất nước hợp pháp. Và cuộc cách mạng này đã nhanh chóng tăng tốc tiến trình hiện đại hóa quốc gia, thay thế một mớ hỗn độn những sắp xếp địa phương và các thái ấp bằng một hệ thống thư lại quốc gia và hệ thống thuế khóa quốc gia. Nói tóm lại, cuộc cách mạng Pháp và hậu quả của nó đã trở thành những bước quan trọng đầu tiên trong một cuộc đấu tranh kéo dài một thế kỷ rưỡi để loại bỏ chế độ cũ và thay vào đó bằng một cái gì tốt đẹp hơn và dân chủ hơn. 
TRƯỜNG HỢP NƯỚC Ý 
Trong khi đó, nước Ý chỉ bắt đầu dân chủ hóa trước Thế chiến I. Chế độ mới bị băng hoại vì xung đột xã hội và bất ổn chính trị ngay từ ban đầu, và những vấn đề này bị hậu quả khó khăn của chiến tranh làm cho tồi tệ thêm. Vào thời kỳ 1919-1920, khoảng 1,3 triệu công nhân nhà máy tại các thành thị rời bỏ công việc và tuyên bố rằng chính họ chứ không phải giới chủ và giới quản lý đang trông coi nhà máy. Tình hình ở các vùng quê có lẽ còn hỗn loạn hơn khi nông dân và các công nhân nông nghiệp chiếm giữ tài sản vắng người hay khiếm dụng và các đại địa chủ phải phản ứng bằng cách thuê mướn các đội dân quân tư nhân (private militia) để chặn đứng giới nông dân và các công nhân nông nghiệp nổi loạn. Hai đảng chính trị lớn nhất nước, một đại diện cho Công giáo và một đại diện cho Xã hội chủ nghĩa, không thể hoặc không muốn hợp tác với nhau hay có cam kết rõ ràng đối với thể chế dân chủ, khiến việc xây dựng các chính phủ hữu hiệu ổn định không thể thực hiện được. Nhiều người dân Ý nhanh chóng đâm ra chán ngán với cuộc xung đột thườngxuyên và tình trạng bất ổn chính trị, rồi qui trách nhiệm cho bản thân thể chế dân chủ về những vấn đề của đất nước. Và vào tháng Mười 1922, những chính trị gia phản dân chủ giành được những gì mà họ mong muốn khi vua Ý, được các nhà chính trị bảo thủ thúc đẩy, chấm dứt cuộc thí nghiệm dân chủ và giao vận mệnh đất nước cho nhà lãnh đạo năng động của cánh hữu cực đoan, đó là Benito Mussolini. 
Cuộc chuyển đổi qua chủ nghĩa phát-xít được nhiều người cả bên trong lẫn bên ngoài nước Ý ca ngợi vì họ tin rằng chế độ độc tài cung ứng một cơ may tốt đẹp hơn để tạo ra tình trạng ổn định và phát triển mà đất nước đang khao khát. Những năm cầm quyền đầu tiên của Mussolini chỉ một mực gia tăng tiếng tăm của ông và sự ca ngợi của dân chúng dành cho ông. Nhưng sự sùng bái này đã đặt không đúng chỗ. Chế độ dân chủ ngắn ngủi trước đó là hấp dẫn hơn chế độ phát-xít tiếp theo; hơn nữa, những vấn đề của thời kỳ dân chủ phần lớn được tạo ra bởi chế độ phi dân chủ trước đó, một chế độ đã cố tình chia rẽ và dùng thủ đoạn để thao túng dân chúng Ý, đồng thời không cho phép họ thường xuyên bày tỏ những nguyện vọng và bất bình của mình. 
Chỉ một vài thập kỷ trước đó, bán đảo Ý gồm có nhiều quốc gia riêng biệt với lịch sử chính trị, kinh tế, xã hội, và văn hóa khác nhau. Vì mạng lưới giao thông nghèo nàn và vì thiếu một ngôn ngữ chung, nên hầu hết dân chúng trong khu vực này không mấy hiểu biết và quan tâm đến nhau. Việc thống nhất lãnh thổ diễn ra vào thập niên 1860 không phải là kết quả của một cuộc nổi dậy của quần chúng, mà là do các quyết sách từ trên, được đưa ra bởi các nhà lãnh đạo của Piedmont, quốc gia hùng mạnh nhất trên bán đảo. Người Piedmont chủ yếu áp đặt những gì có thể gọi là một hệ thống chính trị ngoại bang (hệ thống của họ) trên phần còn lại của khu vực. Do đó, quốc gia Ý mới mẻ này gặp sự chống đối lập tức –từ các cộng đồng tự cảm thấy mình đã trở thành thuộc địa, bị người Piedmont bóc lột, và từ Giáo hội Công giáo vì họ bác bỏ ý niệm một chính quyền thế tục vượt lên trên giáo hội quản trị đời sống của người dân Ý. 
Thiếu khả năng và có lẽ không muốn gầy dựng hậu thuẫn từ phía quần chúng, tầng lớp chính trị chóp bu của Ý cai trị đất nước mới mẻ này xuyên qua một hệ thống được mệnh danh là trasformismo (chính phủ liên hiệp cánh giữa), bằng cách kết nạp một số nhóm được ưu đãi nhất định vào trật tự chính trị xuyên qua hệ thống bảo trợ [chế độ ô dù]. Bậc thầy đã sử dụng đường lối này là Giovani Giolitti, vị Thủ tướng Ý ở vào nhiều thời điểm khác nhau từ năm 1892 đến năm 1921, một chính trị gia đã bằng cách gia hạn hoặc trì hoãn sự bảo trợ của nhà nước và bằng cách dùng các hợp đồng ở hậu trường để tưởng tưởng hoặc trừng phạt các nhóm cử tri chủ chốt [Dưới thời Giolitti, toàn nước Ý chỉ có 2 triệu đàn ông có quyền bầu cử và bị khống chế bởi giới đại địa chủ, ND]. Nói cách khác, nạn tham nhũng được cơ chế hoá (institutionalized corruption) đã nằm sẵn trong lòng nhà nước non trẻ của Ý từ những ngày đầu, một sự kiện đã để lại những hậu quả nghiêm trọng cho sự nghiệp phát triển chính trị của đất nước về sau. 
Vì các định chế chính thức của nền chính trị nước Ý vào cuối Thế kỷ 19 và đầu Thế kỷ 20 – gồm các cuộc tuyển cử và quốc hội – rõ ràng không phải là trọng tài đích thực cho quyền lực chính trị, nhiều phe nhóm trong xã hội Ý không còn quan tâm đến chúng và bắt đầu thành hình ngoài các định chế hay thậm chí chống lại chúng. Ngoài ra, việc độc đoán loại trừ một số nhóm nhất định ra khỏi hành lang quyền lực đã tạo phẫn nộ và thất vọng. Và vì hệ thống chính trị không đáp ứng những quan tâm và đòi hỏi của dân chúng, những chia rẽ trong xã hội Ý đã không được giải quyết một cách nhất quán hay có hiệu quả. 
Tất cả điều này có nghĩa là, khi một sự chuyển đổi hoàn toàn qua chế độ dân chủ cuối cùng xảy ra, chế độ mới được khai sinh với hàng loạt vấn đề tồn đọng. Nói cách khác, tình trạng hỗn loạn, xung đột, và bạo động vốn làm băng hoại nước Ý trước khi Mussolini lên nắm chính quyền được gây ra không phải bởi quá nhiều dân chủ (như những người chỉ trích rêu rao) nhưng bởi quá ít dân chủ trước đó. Thời kỳ phát-xít là một bước thụt lùi chứ không phải là một bước đi tới, và khi chế độ dân chủ Ý được phục hồi sau Thế chiến II, nó đã thừa hưởng những lợi ích từ tiến trình thử nghiệm và lại tiếp tục phát triển từ nơi mà cuộc thí nghiệm dân chủ trước đây bị dang dở. 
MÔ HÌNH ĐỨC 
Nước Đức bắt đầu dân chủ hóa cùng với làn sóng dân chủ tràn qua châu Âu sau Thế chiến I, và từ buổi khai sinh, Cộng hòa Weimar non trẻ cũng bị đè nặng bởi những vấn đề như xung đột xã hội, bất ổn chính trị, và chủ nghĩa cực đoan [Cộng hòa Weimar là tên gọi các nhà sử học dùng để chỉ cộng hòa liên bang và thể chế dân chủ đại nghị được thiết lập năm 1919 để thay thế chính phủ đế chế, ND].
Nội trong vài tháng sau khi nền cộng hòa được thành lập, Cộng sản địa phương đã tuyên bố khai sinh một cộng hoà Xô-viết tại Bavaria, nhưng nó liền bị lật đổ bởi quân tình nguyện Freikorps, vốn là những đơn vị dân quân của cánh hữu, phần lớn nằm ngoài sự kiểm soát của chính quyền trung ương. Sau đó Freikorps tiếp tục các cuộc tàn phá, nhúng tay vào các vụ ám sát và biểu tình bạo động, để rồi cuối cùng hậu thuẫn một cuộc đảo chánh hụt năm 1920; những cuộc nổi dậy cánh hữu khác, gồm có cuộc Đảo chánh Beer Hall (Beer Hall Putsch) thất bại nhục nhã của Hitler vào năm 1923, tiếp theo đó, và cả những cuộc nổi dậy của cánh tả [Beer Hall là nơi công chúng tụ tập uống bia và cũng là nơi các chính khách thường đăng đàn diễn thuyết, ND]. Và tình hình nghiêm trọng hơn cả là việc vào năm 1923 Chính phủ Đức không trả nỗi các khoản nợ bồi thường chiến tranh đã khiến Bỉ và Pháp giành quyền kiểm soát vùng Ruhr, nhanh chóng đưa đến nạn Đại Lạm phát (the Great Inflation) – rốt cuộc xóa bỏ các giai cấp trung lưu Đức và càng làm cho Chính phủ và các cơ chế chính trị chủ lưu (mainstream) khác mất thêm chính nghĩa. Một mức độ ổn định nào đó thực sự đã diễn ra vào cuối thập niên 1920, nhưng nước cộng hòa này chưa kịp thở lấy sức thì đã bị cuộc Đại Khủng hoảng Kinh tế vùi dập.

Những lực lượng chính trị chủ lưu chao đảo trước thảm họa kinh tế chính trị đang lù lù xuất hiện, những phần tử cực đoan thắng thế, và vào mùa Thu năm 1932, Đảng Quốc Xã trở thành đảng lớn nhất nước, đã vận động tranh cử bằng chương trình hành động kết hợp những mũi tấn công vào thể chế dân chủ với những hứa hẹn giải quyết các vấn đề của chủ nghĩa tư bản, đồng thời hàn gắn những phân hóa xã hội của Đức. Tháng Hai 1933, Hitler được trao ghế Thủ tướng, và cuộc thử nghiệm dân chủ tại Đức kết thúc. 

Chẳng mấy ai có đủ lý do để tin chắc rằng thế giới Ả Rập sẽ mãi mãi là một ngoại lệ của những qui luật phát triển chính trị. Phản ánh những sợ hãi và phân tích bi quan của Burke và những học giả khác, hàng loạt các nhà phê bình bảo thủ cho rằng Cộng hòa Weimar và các thử nghiệm dân chủ thất bại khác giữa hai cuộc Thế chiến chứng tỏ rằng thể chế dân chủ và sự tham gia của đại chúng vào các sinh hoạt chính trị không sớm thì muộn thường đưa đến thảm họa. Họ cho rằng chỉ có những hệ thống chính trị độc tài được cai trị bởi một nhà lãnh đạo cứng rắn mới bảo đảm được kỹ cương và chặn đứng được tranh chấp xã hội, bất ổn chính trị và suy đồi đạo lý. Nhưng một lần nữa, những nhà phê bình này lại sai lầm. Số phận của Cộng hòa Weimar ít có liên hệ với bất cứ vấn đề nội tại nào trong thể chế dân chủ hay điều mà nhà văn Tây Ban Nha José Ortega gọi là “con người quần chúng” (mass man); nó có nhiều liên hệ hơn với di sản bi thảm của chủ nghĩa độc tài Đức trước đó. 
Nước Đức hiện đại xuất hiện vào nửa sau của Thế kỷ 19, được thống nhất do quyết định từ trên, dưới sự bảo trợ của bang mạnh nhất của nó, đó là nước Phổ (Prussia) bảo thủ và quân phiệt.

Chính phủ được điều hành bởi một thủ tướng chịu trách nhiệm trước một vị vua cha truyền con nối (the kaiser) chứ không chịu trách nhiệm với đại chúng; có hai viện lập pháp, thượng viện bị giới bảo thủ Phổ khống chế và hạ viện được bầu chọn theo chế độ bầu cử phổ thông (universal suffrage). Thủ tướng không cần đến hậu thuẫn của dân chúng để nắm quyền hành, nhưng cần hậu thuẫn này để thông qua các đạo luật quan trọng.
Chế độ độc tài mềm dẻo hoặc hỗn hợp này đã mạnh mẽ khích lệ các nhà lãnh đạo dùng thủ đoạn chính trị để đạt được những gì họ mong muốn đồng thời làm các thành phần đối lập ở vào thế chông chênh chỉ biết phòng ngự. Otto von Bismark, ngồi ở chức vụ thủ tướng gần hai thập kỷ, là một bậc thầy về hành động quân bình lực lượng này.
Một mặt, Bismark tạo ra một liên minh bảo thủ, phản dân chủ, gồm giới địa chủ quí tộc rộng lớn và các nhà công nghiệp nặng; mặt khác, ông chia rẽ, đàn áp, và bôi nhọ các đối thủ Công giáo và Xã hội chủ nghĩa, đồng thời đào sâu hố chia rẽ khắp nước. Chính sách “kẻ thù của quốc gia” do Bismark đưa ra cũng để lại ảnh hưởng độc hại lên chủ nghĩa dân tộc Đức, tạo ra một quan niệm cho rằng nước Đức đang đối đầu với những đe dọa từ bên trong lẫn bên ngoài. 
Hậu quả là một nước Đức thống nhất về mặt chính trị nhưng ngày càng phân hóa về mặt xã hội, với một tinh thần dân tộc chủ nghĩa lệch lạc, một đầu óc đa nghi về thù trong giặc ngoài, và mức độ thất vọng và cực đoan ngày càng gia tăng (vì chính phủ phi dân chủ này tỏ ra không đủ sức và không muốn đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi của dân chúng). Vì thế, khi một cuộc chuyển đổi trọn vẹn qua thể chế dân chủ cuối cùng đã diễn ra tiếp theo sau sự thất trận của Đức năm 1918, chế độ mới đã thừa kế nhiều di sản băng hoại từ chế độ độc tài trước đó, kể cả việc cố tình ngụy tạo trách nhiệm về chiến bại của Đức và tất cả các hậu quả chính trị, kinh tế và tâm lý phát xuất từ đó. 
Tại Đức, cũng như tại Pháp và Ý, thậm chí dù cuộc thử nghiệm dân chủ hóa đầu tiên có thất bại thảm hại đi nữa, nó vẫn để lại những hậu quả tích cực quan trọng về lâu về dài. Khoảng một thế hệ sau, khi dân chủ có một cơ hội thứ hai, người ta sẽ xây dựng lên đó nhiều cơ chế mới, và mọi thứ, từ đảng phái chính trị đến chính quyền quốc gia và địa phương đến các tổ chức xã hội công dân, đều được hồi phục từ đống tro tàn. Kinh nghiệm của Cộng hòa Weimar giúp các lãnh đạo chính trị về sau đảm bảo rằng những sai lầm trong lịch sử sẽ không được lặp lại, với những bài học có ảnh hưởng tốt đẹp lên việc soạn thảo các bản hiến pháp, lên việc tổ chức các nhà nước phúc lợi (welfare states), cơ cấu các quan hệ giữa công ty và nhân viên, và hành vi chính trị nói chung. Giai đoạn giữa hai cuộc Thế chiến và hậu quả của nó hóa ra không phải là một bước vòng vo của lịch sử, mà là một giai đoạn quan trọng trong cuộc tranh đấu về lâu về dài của châu Âu để xây dựng các chế độ dân chủ tự do ổn định. 
TÌNH HÌNH SẼ TỐT ĐẸP HƠN 
Những trường hợp trên có gì để nói về Mùa Xuân Á Rập? Chúng cho ta thấy rằng những vấn đề đang biểu hiện rất rõ nét tại Ai Cập và các nước đang chuyển mình khác trong thế giới ngày nay là hoàn toàn bình thường và có thể tiên đoán được, rằng những vấn đề này chủ yếu là lỗi lầm của các chế độ độc tài trước đó chứ không phải là do các tác nhân dân chủ mới mẻ, và rằng sự cáo chung của chủ nghĩa độc tài và việc thử nghiệm chế độ dân chủ chắc chắn về sau sẽ được nhìn nhận là những bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển chính trị tại những nước này, cho dù tình hình có trở nên tồi tệ trước khi rốt cuộc lại trở nên tốt đẹp hơn. 
Hầu hết các nước dân chủ tự do ổn định hiện nay đều đã kinh qua một thời gian rất khó khăn mới được như vậy. Thậm chí cả những trường hợp thường được đề cao như những tấm gương dân chủ hóa sớm sủa và dễ dàng, như Anh và Mỹ, cũng kinh qua nhiều vấn đề hơn người ta thường nhớ, với những cuộc nội chiến trên qui mô lớn diễn ra trên con đường tiến tới dân chủ. Giống như những vấn đề này không có nghĩa là thể chế dân chủ là sai lầm hay không thể thực hiện đối với Bắc Mỹ hay châu Âu, những vấn đề của các nước dân chủ Ả Rập non trẻ cũng không có nghĩa là thể chế dân chủ là sai lầm hay không thể xảy ra đối với Trung Đông. Xưa cũng như nay, hầu hết các vấn đề mà những nước dân chủ phải đương đầu là được thừa kế từ các chế độ trước đó. Thể chế dân chủ không nhất thiết tạo ra hay làm trầm trọng thêm sự tranh chấp và nỗi thất vọng của cộng đồng và xã hội, nhưng nó cho phép thái độ hoài nghi và nỗi niềm cay đắng mà người dân chất chứa dưới các chế độ độc tài có cơ hội bộc lộ, thường thường với những hậu quả đáng tiếc. Nhưng việc tiếc nuối sự ổn định dưới chế độ độc tài quả là một phản ứng sai lầm, vì chính những căn bệnh có sẵn trong chủ nghĩa độc tài vốn đã giúp tạo ra những vấn đề tiềm ẩn này từ đâu. 
Lịch sử cho chúng ta biết rằng các xã hội không thể vượt qua những vấn đề này trừ phi và cho đến bao giờ họ đối đầu trực tiếp với chúng. Việc lật đổ một chế độ độc tài đã trụ được một thời gian lâu dài không phải là điểm kết thúc của tiến trình dân chủ hóa nhưng mới chỉ là bước khởi đầu. Thậm chí cả những cuộc thử nghiệm dân chủ thất bại thông thường vẫn là những giai đoạn tích cực quan trọng trong tiến trình phát triển chính trị của các nước, là những thời kỳ trong đó những nước này bắt đầu loại bỏ các di sản xã hội, văn hoá, và kinh tế phản dân chủ của quá khứ. Có quá nhiều nhà quan sát hiện nay đang lý giải các vấn đề và những bước thụt lùi [tại Trung Đông] như là những dấu hiệu cho thấy rằng một thành quả dân chủ ổn định sau cùng là điều không thể xảy ra. Nhưng những biến cố bạo động và bi thảm như Cách mạng Pháp, sự sụp đổ của thể chế dân chủ tại Ý cũng như tại Đức, và cuộc Nội chiến Mỹ không phải là những bằng chứng cho thấy những nước này không thể tạo ra hoặc duy trì được các chế độ dân chủ tự do; những biến cố lịch sử ấy là một phần rất quan trọng trong tiến trình theo đó những nước này đã đạt được thành quả tốt đẹp như vậy. 
Thái độ bi quan khắp mọi nơi về Mùa Xuân Ả Rập gần như chắc chắn sẽ sai lầm. Hẳn nhiên, Trung Đông có một hỗn hợp gồm nhiều thuộc tính văn hóa, lịch sử, và kinh tế độc đáo. Nhưng mọi khu vực cũng đều như thế cả, vì thế không lý do gì chúng ta lại tin chắc thế giới Ả Rập sẽ vĩnh viễn trở thành một ngoại lệ đối với qui luật phát triển chính trị. Năm 2011 là hừng đông của một kỷ nguyên mới mẻ đầy hứa hẹn cho toàn khu vực, và trong tương lai thời điểm này sẽ được coi là một bước ngoặt lịch sử, cho dù xuôi về hạ lưu sẽ còn gặp nhiều thác ghềnh hung dữ.
Các đầu óc bảo thủ chỉ trích thể chế dân chủ chắc chắn sẽ sai lầm lần này, cũng như họ đã từng sai lầm về tình hình các nước Pháp, Ý, Đức và mọi nước khác mà họ từng cho là tốt đẹp hơn dưới các chế độ độc tài.
S.B.






........./.

Quan hệ Việt – Trung '''''''''''''''''''''''''




Quan hệ Việt – Trung: 

Thực tế bẽ bàng hơn nhiều 

Nguyễn Gia Kiểng
“…Nếu ở Việt Nam có một người không được quyền lên án bất cứ ai là tay sai Trung Quốc thì người đó chính là Lê Đức Anh…”


*****************
https://vietsuky.wordpress.com/2012/08/31/155-quan-he-viet-trung-thuc-te-be-bang-hon-nhieu/
****************


Giờ này, khi mà nhiều người nghĩ và tin rằng Việt Nam chỉ còn một chọn lựa là ra khỏi thế lệ thuộc Trung Quốc và nhanh chóng tiến đến thế đồng minh chiến lược với Hoa Kỳ và các nước dân chủ, chúng ta cần nhận định lại quan hệ Việt Trung một cách chính xác hơn. Lý do là vì sự thực còn phũ phàng hơn nhiều người nghĩ. Và nếu quá khứ có khả năng tiết lộ những gì có thể sẽ tới thì chúng ta phải rất cảnh giác nếu không muốn hụt hẫng một lần nữa.
Cho tới nay, theo cái nhìn của nhiều người, Trung Quốc, sau khi thất bại trong chiến tranh biên giới 1979,  đã cố lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của họ và đã thành công; Đại Hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã là một bước đổi mới đầy hy vọng không may bị khựng lại và đảo ngược; Nguyễn Văn Linh là con người của một cách canh tân dang dở; trong nội bộ ĐCSVN đã có đấu tranh giữa hai phe canh tân thân phương Tây và bảo thủ thân Trung Quốc và sau cùng phe bảo thủ đã thắng v.v.
Nhưng sự thực rất khác.
Cái nhìn này không giải thích được một cách thuyết phục tại sao ĐCSVN đã có thể đổi hẳn chính sách đối với Trung Quốc từ thế tử thù sang thế chư hầu ngoan ngoãn mà không gây ra một chấn động lớn, bằng cớ là cho đến nay ít người có thể nói một cách quả quyết ĐCSVN đã quyết định thay đổi thái độ đối với Trung Quốc vào lúc nào, hay tại sao mặc dù Việt Nam hết sức chiều lòng Trung Quốc mà Trung Quốc lại cứ tiếp tục hạ nhục và chèn ép Việt Nam.
Lý do là vì nó vẫn nằm trong một logic bình thường theo đó mọi chính quyền trước hết mưu tìm quyền lợi cho đất nước mình, họ có lầm lẫn hay không là chuyện khác. Logic này không đúng trong trường hợp của quan hệ Việt – Trung như chúng ta sẽ thấy.
Nhìn lại quan hệ Việt – Trung đòi hỏi một phân tích thấu đáo những gì đã xảy ra, điều này không dễ vì sự đảo ngược quan hệ Việt Trung đã diễn ra một cách bí mật trong nội bộ của nhóm cầm quyền cao nhất trong đảng cộng sản, nghĩa là bộ chính trị (BCT) và ban bí thư (BBT), ngay cả tuyệt đại bộ phận đảng viên cao cấp cũng không biết.
Hơn nữa nó lại chủ yếu được quyết định qua những thảo luận miệng trong tập đoàn lãnh đạo mà các biên bản hoặc không có hoặc vẫn còn được giữ kín. Trong hoàn cảnh đó ta chỉ có thể dựa vào hồi ký của những người trong cuộc cuối đời hoặc có những tâm sự muốn nói ra hoặc có những ân oán giang hồ muốn thanh toán.
Tập Hối Ức và Suy Nghĩ của Trần Quang Cơ là một tài liệu quí. Ít ai có điều kiện để theo dõi biến chuyển trong quan hệ Việt – Trung bằng ông. Ông chủ trì nhóm CP87 một nhóm nghiên cứu chiến lược đối ngoại của đảng vào giai đoạn chuyển hướng này. Ông cũng là thứ trưởng đặc trách vấn đề Campuchia, vấn đề gai góc nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc vào lúc đó. Ông đại diện Việt Nam đàm phán với đại diện Trung Quốc Từ Đôn Tín vào tháng 6-1990, cuộc đàm phán gay go cuối cùng trước khi chính quyền cộng sản Việt Nam thực sự đầu hàng, đúng ra là được Trung Quốc cho phép hàng phục. Quan trọng hơn, Trần Quang Cơ là một trong những người hiếm hoi có kiến thức về thế giới và bang giao quốc tế, một khả năng mà không ai trong số những lãnh tụ cộng sản cao nhất có. Tuy vậy ông Cơ chỉ là một người thừa hành ngoan ngoãn. Nếu đôi khi ông có những tâm sự u uất thì đó cũng chỉ là những trăn trở của một tôi trung.
Trần Quang Cơ không có cái nhìn của người lấy quyết định, do đó ông quan tâm trước hết đến những gì thuộc phần nhiệm của mình. Vì vậy trong hồi ký này các sự kiện không được chọn lựa và sắp xếp theo tầm quan trọng đối với chính sách đối ngoại mà theo tầm quan trọng của chúng đối với cá nhân ông. Ông kể khá chi tiết những thảo luận về giải pháp Campuchia và những cuộc phỏng vấn của ông với các báo dù chúng chỉ có một giá trị rất tương đối nếu ta muốn tìm hiểu động cơ và não trạng của những người quyết định chính sách của Việt Nam vào lúc đó. Những điều Trần Quang Cơ kể lại vì vậy cần được hội nhập vào dòng thời sự của cả một giai đọan dài mới có giá trị giải thích và soi sáng.
Trước hết hãy nhìn lại một cách tổng quát quan hệ Việt Trung.
Một cách ngắn gọn có thể nói cho tới cuối thâp niên 1960 ĐCSVN đã giữ được thế cân bằng của một đứa em ngoan giữa anh cả Liên Xô  anh hai Trung Quốc, dù có phần gần với Trung Quốc hơn vì lúc đó Liên Xô không khuyến khích cuộc chiến chinh phục miền Nam mà ĐCSVN coi là mục tiêu sống còn. Năm 1957 Liên Xô còn đề nghị cho cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc.
Nhóm “xét lại chống đảng” chung quanh ông Hoàng Minh Chính đã bị đàn áp thẳng tay vì bị tình nghi là theo đường lối “xét lại” của Khruchev. Tuy vậy sau khi triệt hạ xong nhóm bị coi là thân Liên Xô này, ban lãnh đạo ĐCSVN, đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, vẫn duy trì quan hệ mật thiết với Liên Xô. Thế cân bằng này đã dần dần thay đổi sau khi Brezhnev lên thay Khruchev (tháng 10-1964) và chọn đường lối cứng rắn hơn trong chiến tranh lạnh, trong khi Trung Quốc suy yếu vì những tranh chấp nội bộ mà cao điểm là cuộc “Đại Cách Mạng Văn Hóa” không còn khả năng để yểm trợ đắc lực cuộc “chiến tranh giải phóng miền Nam” của Hà Nội nữa. Sang đầu thập niên 1970, khi xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô trở thành dữ dội và Trung Quốc rõ ràng tìm cách bắt tay với Hoa Kỳ  (Kissinger bí mật sang Bắc Kinh tháng 6-19971 chuẩn bị cho Nixon sang thăm Trung Quốc tháng 2-1972 mà kết quả là Tuyên Ngôn Thượng Hải mở đầu tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước), Hà Nội chọn đứng hẳn về phía Liên Xô, và quan hệ Việt Trung dần dần chuyển từ bạn sang thù.
Năm 1976 Đảng Cộng Sản Trung Quốc không gửi phái đoàn tham dự Đại Hội  IV của ĐCSVN. Nước Việt Nam thống nhất chọn toàn bộ mô hình tổ chức Đảng và Nhà Nước của Liên Xô. Trung Quốc xúi dục và hỗ trợ chính quyền Khmer Đỏ gây chiến với Việt Nam, Việt Nam đem quân đánh đổ chế độ Pol Pot tháng 12-1978, một tháng sau khi gia nhập khối COMECON và ký xong hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô.
Trung Quốc đem quân tấn công tàn phá các tỉnh biên giới phía Bắc để “dạy cho Việt Nam một bài học”. Các báo đài của hai bên mạt sát nhau thậm tệ. Trung Quốc bới móc đời tư để bôi bẩn Hồ Chí Minh trong khi Việt Nam lố bịch hóa Mao Trạch Đông như một bạo chúa quê mùa lỗ mãng không tắm, không đánh răng, khạc nhổ bừa bãi và mắc bệnh tim la. Nhân dân hai nuớc được huy động để xuống đường lên án đối phương hàng ngày.
Chính quyền CSVN xua đuổi người Việt gốc Hoa.
Năm 1980 hiến pháp Việt Nam được sửa đổi để thêm vào lời nói đầu một đoạn tuyên chiến với Trung Quốc. Trong đại hội đảng V, tháng 3-1982, bản điều lệ của ĐCSVN cũng được sửa đổi với lời nói đầu đề cao cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung như một chiến công lịch sử oanh liệt. Nguyễn Văn Linh, người có công lớn trong cuộc “chiến tranh giải phóng miền Nam” bị loại khỏi bộ chính trị vì lập trường thân Trung Quốc.
Nhiều công thần bị loại chỉ vì có tội là người Việt gốc Hoa.
Chiến tranh biên giới giữa hai nước vẫn tiếp tục. Thế thù địch đạt đến cực điểm.
Thế rồi, một cách lặng lẽ nhưng nhanh chóng và quả quyết, tình thế đã thay đổi hẳn. Việt Nam trở thành một chư hầu khép nép của Trung Quốc. Thay đổi đã diễn ra như thế nào và vào lúc nào?
Mặc dù tình hữu nghị Việt – Trung đã nhạt dần và hầu như không còn gì vào thời điểm Đại Hội IV tháng 12-1976 nhưng ngòi nổ đã đưa đến xung đột vũ trang giữa hai nước là cuộc chiến Campuchia trong đó cả hai bên đều có những mưu tính không thú nhận. Cuộc chiến khởi đầu tháng 4-1977 khi quân Khmer Đỏ, với sự hỗ trợ và xúi dục của Trung Quốc, tấn công các tỉnh biên giới phía Tây Nam. Cuối năm 1978 Việt Nam đem quân đánh chiếm Campuchia, lập nên chính quyền Heng Samrin – Hun Sen và chỉ rút quân năm 1989 trước áp lực quốc tế, đặc biệt là áp lực Trung Quốc.
Với thời gian người ta có thể nhận thấy là vào thời điểm 1977 chế độ Pol Pot là một gánh nặng cho Trung Quốc vào lúc mà Đặng Tiểu Bình muốn tìm kiếm sự hợp tác của Hoa Kỳ và các nước dân chủ. Chế độ diệt chủng Pol Pot quá hung bạo và bị cả thế giới lên án như một bọn quỉ sứ, nhưng nó cũng là một chư hầu của Trung Quốc và vì thế nó khiến Trung Quốc cũng bị lên án lây.
Còn gì tốt hơn cho Trung Quốc là chế độ Pol Pot bị Việt Nam tràn ngập?
Trung Quốc bớt được một gánh nặng và Việt Nam, kẻ thù đáng ghét nhất của Trung Quốc, bị thế giới nhìn như một mối nguy cho vùng Đông Nam Á và bị cô lâp. Ngược lại chế độ CSVN cũng muốn đánh gục chính quyền Pol Pot và dựng lên một chính quyền chư hầu tại Campuchia. Lúc đó những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam đang say men chiến thắng. Họ đặt điều kiện để cho phép Mỹ được bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Họ tưởng mình vĩ đại, chủ nghĩa Mác-Lênin nhất định toàn thắng và sắp toàn thắng đến nơi, chủ nghĩa tư bản đang dẫy chết.
Ý đồ tái lập Liên Bang Đông Dương như một không gian Việt Nam nới rộng là có thực chứ không phải chỉ là một bịa đặt vu khống của Trung Quốc, dù danh xưng “Liên Bang Đông Dương” không được sử dụng. Trong những năm kế tiếp cuộc xâm lăng Campuchia không ngày nào các báo đài Việt Nam không đưa tin về “ba nước Đông Dương”.
Một định chế được thành lập và thường được nhắc tới là “Hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương”. Cụm từ “ba nước Đông Dương” được đưa vào lời nói đầu của hiến pháp 1980 cùng cụm từ “bọn bá quyền Trung Quốc”. Một danh xưng được đề nghị lúc đó là KALAVI (Kampuchia, Lào, Việt Nam) để chỉ thực thể bao gồm ba nước thay cho cụm từ Đông Dương.
Chính sách khôn ngoan cho Việt Nam vào lúc đó là chỉ đẩy lùi và đánh tê liệt quân Khmer Đỏ nhưng không tràn vào chiếm đóng Campuchia. Như thế Trung Quốc sẽ không khạc được khúc xương Khmer Đỏ và sẽ tiếp tục bị thế giới lên án như là quan thày của chế độ diệt chủng gớm ghiếc Pol Pot. Nhưng chính sách này ban lãnh đạo ĐCSVN không hề nghĩ đến. Họ đang say men chiến thắng và tự đặt cho mình sứ mạng cao cả là làm đội tiên phong kiên cường của phong trào cộng sản thế giới do Liên Xô lãnh đạo mà theo họ thắng lợi đã gần kề.
Hơn nữa họ cũng tin một cách mù quáng vào sức mạnh của Liên Xô và họ tin Liên Xô thừa sức che chở cho họ. Tháng 11-1978 Việt Nam gia nhập khối COMECON và ký hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô, một tháng sau quân Việt Nam tràn vào Campuchia. Các biến cố kế tiếp nhau theo một kế hoạch. Vào thời điểm này tuy kinh tế Việt Nam  đang suy sụp bi đát – trong các tiệm ăn người ta cân từng bát cơm – và Hoa Kỳ không còn sẵn sàng bình thường hóa quan hệ ngoại giao không điều kiện nữa, nhưng niềm tin vào “chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng” vẫn còn nguyên vẹn vì ảnh hưởng của Liên Xô vừa mở rộng một cách ngoạn mục. Trong vòng năm năm, từ 1975 đến 1980, một loạt quốc gia theo nhau rơi vào quỹ đạo Liên Xô -Việt Nam, Lào, Somalia, Yemen, Ethiopia, Granada, Nicaragua, Angola, Afghanistan… Chính sự phình to này đã khiến Liên Xô kiệt quệ và sụp đổ nhanh chóng sau đó nhưng trong nhất thời nó khiến ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam mê cuồng đến mất trí. Trong khi đó Trung Quốc dưới Đặng Tiểu Bình, ngược lại, dồn mọi cố gắng để tranh thủ sự hợp tác của phương Tây và khai thác triệt để thái độ hung hăng đắc thắng của Việt Nam để xuất hiện như một lực lượng bảo vệ hòa bình tối cần thiết tại Đông Nam Á.
Đặng Tiểu Bình không ngần ngại tuyên bố “Trung Quốc là NATO ở phương Đông, Việt NamCuba ở phương Đông”. Thực tế đã cho thấy Trung Quốc khôn ngoan bao nhiêu thì Việt Nam khờ dại bấy nhiêu. Khi Trung Quốc tấn công Việt Nam tháng 2.1979, trừ Liên Xô và một vài đồng minh, thế giới gần như cho rằng đây là hành động đúng và cần thiết.
Trung Quốc không phải chỉ đã tấn công để “dạy cho Việt Nam một bài học” rồi thôi. Quân Trung Quốc vẫn còn liên tục tấn công vào Việt Nam sau đó. Đã có hai đợt tấn công lớn sau 1980, đợt đầu trong hai tháng 1 và 2.1982, đợt sau trong từ tháng 4 đến tháng 7.1984. Đợt sau cùng này đặc biệt dữ dội, trong đó có trận Lão Sơn (hay Cao Điểm 1509, thuộc huyện Vị Xuyên, Hà Giang). Nhiều tài liệu Trung Quốc nói rằng ba quân đoàn của họ đã đánh lui và gây thiệt hại nặng cho ba sư đoàn Việt Nam trong trận này.
Lão Sơn ngày nay đã thuộc về Trung Quốc.
Trận này được nhớ tới như là một chiến công lớn của quân đội Trung Quốc. Ngay sau trận đánh tổng bí thư Hồ Diệu Bang đã đến khen thưởng binh sĩ Trung Quốc. Trong Thế Vận Bắc Kinh 2008 trường đua xe đạp được đặt tên là Lão Sơn.
Hoàn cảnh Việt Nam lúc đó hoàn toàn tuyệt vọng, kinh tế sụp đổ, sa lầy tại Campuchia và bị cả thế giới lên án. Liên Xô đã không cứu giúp còn khuyên Việt Nam nên  hòa với Trung Quốc. Lúc đó chính Liên Xô cũng đang tìm cách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc – các cuộc thương luợng giữa hai bên đã bắt đầu từ năm 1982 – nên không thể có vấn đề Liên Xô giúp Việt Nam đánh nhau với Trung Quốc. Hơn nữa, tình trạng bi đát của Liên Xô ngày càng rõ rệt: kiệt quệ về kinh tế, sa lầy về quân sự tại Afghanistan và chao đảo ngay trong nội bộ. Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Ronald Reagan đang phục hồi một cách ngoạn mục và quả quyết đánh sụp Liên Xô. Reagan thản nhiên gọi Liên Xô là “Đế Quốc Ác Quỷ” (Evil Empire) và thách thức chạy đua võ trang trong khi Liên Xô đã kiệt quệ. Trong các nước vừa lọt vào quỹ đạo Liên Xô các lực lượng chống cộng phản công dữ dội và ngày càng thắng thế. Andropov, kế vị Brezhnev từ tháng 11.1982, nhìn nhận tình trạng nguy ngập và tuyên bố nhu cầu cải tổ toàn diện, điều mà sau đó Gorbachev sẽ làm nhưng cũng không cứu được Liên Xô. Phải hiểu rằng ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã rất hốt hoảng.
Cũng cần phải nói lại rằng chiến tranh biên giới hoàn toàn không phải là một chiến thắng cho Việt Nam. Trong cả ba đợt tấn công Việt Nam đã tổn thất hơn hẳn Trung Quốc; trong đợt cuối cùng trận Lão Sơn là một thất bại nặng cho Việt Nam.
Cái ảo tưởng chiến thắng chỉ là một sản phẩm tuyên truyền của chính quyền CSVN.
Trung Quốc đã không cải chính tuyên truyền này vì nó có tác dụng che giấu sự kiện họ lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam: Việt Nam thắng trận thì không thể mất đất. Nhưng sự thực là Việt Nam đã mất nhiều đất, trong đó có Lão Sơn, Bản Giốc, Nam Quan. Có thể lấy tháng 7.1984 như là thời điểm mà Hà Nội , sau khi thua trận Lão Sơn, không còn sức để phản công và cũng không còn chỗ dựa Liên Xô, đã quyết định cầu hòa với Trung Quốc.
Và sự hàng phục đã diễn ra một cách rất thành khẩn.
Ngôn ngữ chống Trung Quốc biến mất trong diễn văn của các lãnh tụ hàng đầu, sau đó trên các báo, đài Việt Nam. Tháng 6.1985, Nguyễn Văn Linh, con người đã thất sủng vì thân Trung Quốc, được đưa trở lại bộ chính trị, để rồi một năm sau trở thành thường trực ban bí thư, nghĩa là nhân vật thứ 2 trong đảng, nhưng thực tế là nhân vật toàn quyền vì Lê Duẩn đã chết, Trường Chinh đã già nua lỗi thời. Lê Đức Thọ, người kiểm soát bộ máy đảng không còn chọn lựa nào khác là ủng hộ Nguyễn Văn Linh.
Một năm sau ông Linh trở thành tổng bí thư sau Đại Hội VI. Phải hiểu rằng đây là sự hàng phục chúng ta mới giải thích được thái độ quỵ lụy của ĐCSVN đối với Trung Quốc sau đó.
Còn một chọn lựa khác cho ĐCSVN là quả quyết hòa giải với Hoa Kỳ và sáp lại với các nước dân chủ để được bảo vệ bởi công pháp quốc tế và để phát triển đất nước qua trao đổi và hợp tác với các nước giầu mạnh, nhưng chọn lựa này, vào thời điểm đó và cho tới hết thập niên 1980 không một lãnh tụ cộng sản Việt Nam nào nghĩ đến. Một lý do là vì những vết thương của cuộc chiến và của chính sách tiếp thu miền Nam vẫn còn quá mới, đảng cộng sản đã đi quá xa trong thái độ huênh hoang đắc thắng, nhiều sĩ quan và viên chức miền Nam vẫn còn trong các trại cải tạo, thế giới vẫn còn xúc động vì làn sóng thuyền nhân.
Nhưng đây không phải là lý do chính.
Lý do chính là tất cả các lãnh tụ cộng sản lúc đó, không trừ môt ngoại lệ nào, đều tin một cách cuồng nhiệt vào chủ nghĩa Mác-Lênin và thù ghét dân chủ. Trong mọi trường hợp họ chỉ tìm kiếm những giải pháp trong khuôn khổ chủ nghĩa Mác-Lênin.
Với logic này một khi không dựa vào Liên Xô được nữa thì chỉ còn một con đường là theo Trung Quốc. Đặc điểm chung của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam là họ rất thiếu văn hóa, họ chỉ biết có một chủ nghĩa Mác-Lênin mà họ học một cách cung kính như một giáo lý chứ không phải một cách có phê phán như một tư tưởng chính trị.
Đối với họ chủ nghĩa Mác-Lênin là một tín ngưỡng tuyệt đối. Đã thế họ còn trưởng thành trong chiến tranh và được huấn luyện để không bao giờ thắc mắc về đường lối và mệnh lệnh. Đặc tính của những người thiếu văn hóa là họ thường có những xác quyết chắc nịch không thể thay đổi. Các lãnh tụ cộng sản lúc đó đều coi bảo vệ chủ nghĩa xã hội là bổn phận trước hết và trên hết. Kể cả ông Nguyễn Cơ Thạch, con người hiểu biết và sáng suốt nhất trong các thành viên bộ chính trị. Ông Thạch chỉ chủ trương mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ và các nước phương Tây để đừng quá cô lập và bị Trung Quốc bắt chẹt chứ ông không hề nghĩ là phải kết bạn với những nước  này.
Ông Trần Quang Cơ thuật lại lời phát biểu của ông Thạch trong một cuộc thảo luận tháng 5.1987  của tổ CP87:  “Phải thỏa thuận cả với Mỹ, chỉ húc đầu vào một con đường nói chuyện với Trung Quốc là không đúng.”  Ý kiến này, theo ông Cơ, là một ý kiến động trời vào lúc đó, vì nói tới quan hệ với các nước phương Tây là một điều húy kỵ.
Còn chính ông Trần Quang Cơ?
Cuốn “Hồi ức và suy nghĩ” của ông có thể khiến người đọc nghĩ rằng ông là một người rất cởi mở, nhưng trong báo cáo trình bộ chính trị vào năm 1993 ông vẫn coi “diễn biến hòa bình”, nghĩa là chuyển hóa về dân chủ, như một mối nguy và tới năm 2000, khi viết những dòng cuối cùng của cuốn sách, ông vẫn thấy lập trường này “xem ra chưa phải đã lỗi thời”. Quan điểm của ông Cơ đáng chú ý ở chỗ ông không phải là thành viên bộ chính trị hay ban bí thư, ông chỉ là một người thừa hành và một chuyên gia và do đó có thể nói thực những gì mình nghĩ.
Chính vì thế mà những gì ông nói phản ánh một cách thực thà “não trạng cộng sản” lúc đó.
Người duy nhất trong số các lãnh đạo cấp cao dám có lập trường đổi mới mạnh dạn, dù muộn màng, là ông Trần Xuân Bách. Ông là thành viên của cả bộ chính trị lẫn ban bí thư và phát biểu lập trường đa nguyên đa đảng trong một bài nói chuyện tại trường đảng Nguyễn Ái Quốc tháng 1 năm 1990. Ngay sau đó ông bị kỷ luật, khai trừ khỏi cả bộ chính trị lẫn ban bí thư và cả trung ương đảng.
Có lẽ chỉ trừ ông Trần Xuân Bách tất cả bộ chính trị đều tán thành đường lối cầu hòa với Trung Quốc. Sự khác nhau chỉ là ở chỗ có những người, như Nguyễn Cơ Thạch, muốn đa dạng hóa quan hệ để đừng bị cô lập và chèn ép; có những người chấp nhận phục tùng Trung Quốc nhưng vẫn còn ấm ức như Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt, còn đa số hầu như không có tâm sự nào cả.
Riêng hai ông Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh thì không những chỉ chấp nhận mà còn tỏ ra rất nhiệt tình với lập trường qui phục Trung Quốc không điều kiện. Nguyễn Văn Linh vốn là một người thân Trung Quốc và đã từng bị loại khỏi bộ chính trị trong Đại Hội V, năm 1982. Trong cuộc gặp gỡ với tổng bí thư đảng cộng sản Lào Kaysone Phomvihan tháng 10.1989, Đặng Tiểu Bình trong khi phê phán nặng lời Lê Duẩn đã hết lời ca tụng Nguyễn Văn Linh, nhắc lại năm 1963 đã tổ chức đưa ông Linh sang Bắc Kinh qua ngả Hồng Kông để gặp Đặng. Việc ông trở lại bộ chính trị rồi ngay sau đó lên làm tổng bí thư đánh đấu sự toàn thắng của khuynh hướng cầu hòa với Trung Quốc.
Trong tất cả mọi phát biểu của Nguyễn Văn Linh lập trường trước sau như một là phải bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc bằng mọi giá. Câu nói quen thuộc của ông là: “Trung Quốc và Việt Nam là hai nước xã hội chủ nghĩa cùng chống âm mưu của đế quốc Mỹ xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, phải cùng nhau chống đế quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa hai nước, các vấn đề khác giải quyết sau”.
Lê Đức Anh cũng hăng say không kém Nguyễn Văn Linh trong lập trường qui phục Trung Quốc. Nhân vật Lê Đức Anh đặc biệt ở chỗ là ông đã được thăng thưởng rất nhanh chóng trong giai đoạn thù địch với Trung Quốc – từ đại tá lên đại tướng bộ trưởng quốc phòng và ủy viên bộ chính trị trong vài năm – nhưng lại đột ngột trở thành thân Trung Quốc sau khi Nguyễn Văn Linh trở lại cầm quyền, có lẽ là vì hai người đã thân nhau từ giai đoạn cùng chỉ huy cuộc chiến tại miền Nam.
Từ khi Nguyễn Văn Linh trở lại Lê Đức Anh hoàn toàn rập khuôn theo ông Linh trong thái độ đối với Trung Quốc. Đôi khi Lê Đức Anh còn tỏ ra thù ghét “đế quốc Mỹ” và ngưỡng mộ Trung Quốc hơn cả Nguyễn Văn Linh.
Thí dụ như khi sang Phnom Penh, cùng với Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười, để thuyết phục chính quyền Hun Sen chấp nhận cái mà Hà Nội gọi là “giải pháp Đỏ” ông nói: “Mỹ muốn xóa cộng sản. Nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất, phải tìm đồng minh, đồng minh là Trung Quốc”. Nhờ lập trường này và sự hỗ trợ của Nguyễn Văn Linh mà Lê Đức Anh gần như trở thành nhân vật quyền lực thứ nhì trong chế độ.
Tuy chỉ là quân nhân và hoàn toàn không biết gì về bang giao quốc tế ông lấn át cả ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch trong chính sách đối ngoại.
Ông Trần Quang Cơ thuật lại rằng trước khi ông đàm phán với đại diện Trung Quốc Lê Đức Anh đã gọi ông cho chỉ thị và ông đã nghe lời khiến ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch phải hỏi gằn một cách bực bội: “Vậy đồng chí theo ý kiến bộ trưởng quốc phòng hay bộ trưởng ngoại giao?”.
Trong Đại Hội VII năm 1991 tuy phải nhường chức tổng bí thư cho Đỗ Mười nhưng quyền lực của ông cũng ngang ngửa với tổng bí thư. Ông là uỷ viên thường trực bộ chính trị kiêm bí thư trung ương phụ trách ba ngành quốc phòng, ngoại giao và an ninh, đồng thời là chủ tịch nước. Tại sao ông phải ôm cả ngoại giao và an ninh nếu không phải là để đảm bảo rằng chính sách phục tùng Trung Quốc vẫn tiếp tục và để bóp nghẹt những tiếng nói phản đối?
Trong dịp “đại hội 11” năm trước, Lê Đức Anh, dù đã 91 tuổi, bỗng nhiên tái xuất hiện kêu gọi ủng hộ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và lên án ông Nguyễn Phú Trọng là “tay sai Trung Quốc”.
Khi được một người bạn trong nước báo tin và hỏi ý kiến tôi đã trả lời: “Đừng nên lấy thái độ, nếu ở Việt Nam có một người không được quyền lên án bất cứ ai là tay sai Trung Quốc thì người đó chính là Lê Đức Anh”. Sau lưng Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh là những người hoặc ủng hộ tận tình lập trường hàng phục Trung Quốc hoặc chống Mỹ kịch liệt và do đó phải chấp nhận cầu hòa với Trung Quốc.
Tới đây cần giải tỏa một số lấn cấn và hiểu lầm.
Điều đáng lưu ý là cách suy nghĩ rất lạ của những người lãnh đạo cộng sản mà một cách vô tình cuốn hồi ký của Trần Quang Cơ mô tả khá rõ. Họ không lý luận một cách bình thường như người ta có thể hình dung: Trung Quốc muốn gì, sẽ làm gì, có thể làm gì, có những điểm mạnh và điểm yếu nào, có thể giúp gì hay gây thiệt hại nào cho Việt Nam, ngược lại Việt Nam có thể bị đe dọa như thế nào và có thể làm gì v.v. Họ lý luận một cách thuần túy ý thức hệ, theo đó Trung Quốc có hai mặt, một mặt xã hội chủ nghĩa và một mặt bá quyền. Trong bảy năm trời lý luận của ĐCSVN chỉ loanh quanh xem mặt nào quan trọng hơn với kết luận sau cùng là cả hai mặt đều quan trọng.
Nghị quyết 13 của bộ chính trị, ngày 25.05.1988, nhấn mạnh là “phải khắc phục những tư tưởng lệch lạc chỉ thấy Trung Quốc là bá quyền mà không thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xã hội hay chỉ thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xã hội mà không thấy Trung Quốc là bá quyền”.Dầu vậy mục tiêu của Đảng vẫn là “phấn đấu bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau”.
Trong các “vấn đề khác” có vấn đề Trường Sa vì hai tháng trước đó, ngày 14.03.1988 hải quân Trung Quốc đã đánh chiếm một số đảo của Việt Nam tại Trường Sa và làm thiệt mạng hơn 60 binh sĩ Việt Nam. Cách lý luận này ngày nay nhìn lại ta có thể cho là dở hơi nhưng nó nói lên não trạng của những người lãnh đạo cộng sản vào lúc đó và nó cũng có hậu quả cụ thể là ĐCSVN chấp nhận trước những thiệt thòi và mất mát đối với Trung Quốc, vì đã chấp nhận “bình thường hóa quan hệ” dù biết trước Trung Quốc có bản chất bá quyền. Theo ông Trần Quang Cơ đây không phải là bình thường hóa quan hệ mà chỉ là lệ thuộc hóa. Vả lại, điều khó tin nhưng có thực, quyền lợi quốc gia không hề là một quan tâm của các lãnh tụ cộng sản vào lúc đó. Theo Trần Quang Cơ chỉ mãi về sau này trong cuộc họp kéo dài ba ngày của bộ chính trị từ 15 đến 17.05.1991, khi chính sách đối với Trung Quốc đã quyết định xong, câu hỏi mới được đặt ra là nên chọn đồng minh theo “lợi ích dân tộc” hay theo ý thức hệ. Và câu trả lời cũng vẫn là phải chọn đồng minh theo ý thức hệ.
Trái với một nhận định khá phổ biến, Nguyễn Văn Linh không phải là con người của của đổi mới mà là con người của Trung Quốc. Đại Hội VI, tháng 12.1986, không phải là đại hội đổi mới và một cơ hội dân chủ hóa không thành mà chỉ là đại hội của chọn lựa thần phục Trung Quốc và chống dân chủ. Cái gọi là “đổi mới” của đại hội này chỉ là rập khuôn theo mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Trung Quốc. Đại Hội VII kế tiếp là đại hội khẳng định dứt khoát sự thần phục đối với Trung Quốc, những phần tử có chút tâm sự lấn cấn với lập trường này, như Trần Xuân Bách và Nguyễn Cơ Thạch, đều bị loại khỏi ban lãnh đạo. Các đại hội VIII và IX chỉ tiếp tục một đường lối đã thành nền nếp. Khuynh hướng đối đầu với Trung Quốc trong đảng chỉ bắt đầu xuất hiện từ đại hội X trở đi và xuất phát từ lớp đảng viên trẻ sau hai thập niên trao đổi với phương Tây, trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội đã trở thành vô nghĩa và nhất là vì Trung Quốc quá xấc xược.

Cũng trái với một nhận định đã được phản ánh qua nhiều bài viết, kể cả của nhiều người dân chủ, Trung Quốc không hề có mưu mô lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của họ.
Thực tế bẽ bàng hơn nhiều.
Chính quyền cộng sản Việt Nam đã nài nỉ được phụ thuộc Trung Quốc trong khi Trung Quốc xua đuổi; họ chỉ coi ĐCSVN như một bọn bội bạc và tráo trở bị dồn vào đường cùng. Trần Quang Cơ tiết lộ: “Từ năm 1980 đến năm 1988 ta đã ngót hai mươi lần đề nghị đàm phán, Trung Quốc chỉ làm ngơ”.
Đúng ra là từ 1984 trở đi, khi Hà Nội thấy là không còn dựa vào Liên Xô được nữa, như chính ông Cơ kể lại trong cuốn hồi ký. Sự khẩn khoản còn gia tăng hơn nữa sau năm 1988. Việt Nam nhiều lần cầu xin Trung Quốc giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội thay thế Liên Xô trong khi Trung Quốc trả lời dứt khoát là họ không có ý định bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Ưu tiên của họ là tranh thủ sự hợp tác và các thị trường của phương Tây để hiện đai hóa và phát triển kinh tế. Một lần đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy nói công khai với quan chức Việt Nam trong buổi tiếp tân của đại sứ quán Ai Cập là “Trung Quốc không chủ trương giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội về mặt đối ngoại”. Đây phải là chọn lựa rất quả quyết của Trung Quốc nên một đại sứ mới có thể nói công khai và tự nhiên như vậy.
Hà Nội muốn lập lại tình anh em xã hội chủ nghĩa trong khi Trung Quốc nói thẳng là họ chỉ có thể chấp nhận một quan hệ láng giềng “thân nhi bất cận” (thân nhưng không gần). Nhu cầu hòa giải với Trung Quốc còn mạnh đến nỗi nó khiến ban lãnh đạo CSVN thúc đẩy Lào lập quan hệ với Trung Quốc để mong nhờ Lào làm trung gian đàm phán với Trung Quốc. Họ còn cố làm một điều tưởng là vừa lòng Trung Quốc trong khi Trung Quốc không những không muốn mà còn bực mình. Đó là “giải pháp Đỏ” cho Campuchia. Sau khi Gorbachev gợi ý rằng Việt Nam nên cố gắng tìm cách thỏa hiệp với Trung Quốc để giải quyết cuộc xung đột tại Campuchia, ban lãnh đạo Việt Nam bèn nghĩ ra “giải pháp Đỏ”, nghĩa là thỏa hiệp giữa hai phe cộng sản Campuchia – Pol Pot do Trung Quốc đỡ đầu và Hun Sen do Việt Nam dựng lên – gạt phăng đi các lực lượng không cộng sản Sihanouk và Son Sann. Họ tưởng như thế sẽ làm hài lòng Trung Quốc, nhưng Trung Quốc lại không chấp nhận. Bắc Kinh muốn một giải pháp do Liên Hiệp Quốc bảo trợ và dành ưu thế cho các lực lượng không cộng sản bởi vì họ đang muốn tranh thủ cảm tình của thế giới và nhất là phương Tây. Ban lãnh đạo Việt Nam thật quá chậm hiểu! Và đồng minh Hun Sen của Hà Nội cũng không chấp nhận “giải pháp Đỏ” này bởi họ nhất quyết không đội trời chung với bọn Khmer Đỏ. Giải pháp này cũng phản bội cả hàng trăm ngàn bộ đội Việt Nam đã chết hoặc bị thương tật tại Campuchia dưới danh nghĩa tiêu diệt bọn diệt chủng Khmer Đỏ.
Với một sự ngoan cố khó tưởng tượng, Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh sẽ còn cố gắng áp đặt giải pháp này lên Hun Sen trong một thời gian dài để hy vọng cùng với Hun Sen thuyết phục Trung Quốc, ngay cả sau khi đã chấp nhận giải pháp do Trung Quốc đưa ra tại Thành Đô. Kết quả là Hà Nội thất bại và còn mất luôn cảm tình của chế độ Hun Sen mà họ dựng lên.
Con đường cầu hòa đã rất nhục nhằn cho Hà Nội. Trung Quốc đã đặt ra nhiều điều kiện để chấp nhận nói chuyện về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước và mỗi khi Hà Nội thỏa mãn xong một điều kiện thì họ lại đặt ra một điều kiện mới và Hà Nội lại phải thỏa mãn. Có khi họ chỉ định cả người đại diện Việt Nam để nói chuyện với họ. Tại hội nghị Paris ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin gặp ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Thâm và được trả lời rằng Tiền Kỳ Thâm không có thì giờ để tiếp Nguyễn Cơ Thạch nhưng nếu thứ trưởng Trần Quang Cơ muốn gặp thì đồng ý.
Tháng 6.1990, sau sáu năm nhẫn nhục của Hà Nội, khi Trung Quốc cuối cùng chấp nhận gửi Từ Đôn Tín, một trợ lý ngoại trưởng, sang đàm phán với thứ trưởng Trần Quang Cơ, cả Nguyễn Văn Linh lẫn Lê Đức Anh đều đã tiếp riêng đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy trước ngày Từ Đôn Tín sang để tỏ lòng kính trọng với Trung Quốc. Từ Đôn Tín đã đến một cách ngạo nghễ như một sứ giả thiên triều và tuyên bố:“Lần này tôi sang Hà Nội để xem xét nguyện vọng của các đồng chí…”. 
Từ Đôn Tín tự cho phép mắng ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và khi ông Thạch trả lời thì nổi giận bỏ đi. Năm sau khi Lê Đức Anh (chủ tịch nước) và Hồng Hà (trưởng ban đối ngoại trung ương đảng) sang thăm Trung Quốc họ đã xin gặp Từ Đôn Tín để xin lỗi, mặc dù trước đó ông Thạch đã bị gạt ra khỏi bộ chính trị và mất chức bộ trưởng ngoại giao để làm vừa lòng Trung Quốc. Lê Chiêu Thống cũng không đến nỗi khúm núm như thế. Nhục nhã hơn nữa cuộc gặp gỡ Thành Đô. Trần Quang Cơ thuật lại như sau: ngày 28.08.1990 đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy thông báo cho chính quyền Việt Nam biết tổng bí thư Giang Trạch Dân và thủ tướng Lý Bằng muốn gặp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và thủ tướng Đỗ Mười cùng với cố vấn Phạm Văn Đồng để bàn về quan hệ giữa hai bên ngày 3.9.1990 tại Thành Đô (thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc).
Đây là lệnh triệu tập chứ không phải đề nghị.
Trung Quốc ấn định ngày giờ, địa điểm và những ai sang Trung Quốc. Họ cũng buộc hai nhân vật quyền lực nhất chế độ, tổng bí thư đảng cộng sản và thủ tướng, phải bỏ ngày quốc khánh Việt Nam để sang họp. Theo Trần Quang Cơ Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã có mặt tại Thành Đô ngày 02.09.1990. (Theo Trương Đức Duy thì họ đến ngày 3-9). Ba ông này sau đó chấp nhận toàn bộ những gì Giang Trạch Dân và Lý Bằng đưa ra. Nhục nhằn như vậy chỉ vì Hà Nội muốn được Bắc Kinh nhận làm đàn em trong khi Bắc Kinh không cần gì cả. Và mối “quan hệ bình thường” này sẽ còn kéo dài về sau.
Trong Đại Hội X, năm 2001, để lật đổ tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh buộc tội Phiêu là đã dâng đất và độc đoán, khi sang Trung Quốc đàm phán về biên giới không đem theo ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm để dễ “thậm thụt”. Nguyễn Chí Trung, trợ lý của Lê Khả Phiêu, biện hộ cho Phiêu như sau: Nguyễn Mạnh Cầm không đi vì thành phần phái đoàn Việt Nam do Trung Quốc quyết định.
Chưa hết, hiện nay mọi người Việt Nam đều phẫn nộ và thế giới cũng phẫn nộ vì cái lưỡi bò liếm hết Biển Đông của Trung Quốc. Nhưng cái lưỡi bò đó do đâu mà có? Đó là vì Bắc Kinh viện cớ họ có một số đảo ở Trường Sa. Đó là những đảo mà họ đã đánh chiếm của Việt Nam năm 1988 sau khi giết hại 64 binh sĩ Việt Nam. Câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại sao Trung Quốc không nhân dịp chiếm luôn tất cả mọi đảo của Việt Nam tại Trường Sa mà lại chỉ chiếm một vài đảo đá?
Câu trả lời là họ không thể chiếm hết.
Thực ra nếu chính quyền CSVN không muốn họ cũng không thể chiếm một hòn đảo nào cả. Trường Sa nằm ngoài tầm hoạt động của không quân Trung Quốc và trong tầm hoạt động của không quân Việt Nam. Các tầu chiến của Trung Quốc lúc đó cũng còn khá sơ sài và chưa đủ sức đương đầu với máy bay chiến đấu. Chính quyền CSVN hoàn toàn có thể phản công lấy lại các đảo đã mất và đuổi tàu chiến Trung Quốc ra khỏi Trường Sa nếu muốn nhưng họ đã không làm. Họ đang muốn cầu hòa với Trung Quốc bằng mọi giá.
Những ai nghi ngờ điều này có thể nhìn những gì xảy ra ngay sau đó. Ngày 14.03.1988 Trung Quốc đánh Trường Sa. Ban lãnh đạo CSVN đã im lặng. Báo chí của Đảng và Nhà Nước loan tin qua loa rồi thôi. Hai tháng sau, ngày 25.05.1988 bộ chính trị họp và ra nghị quyết 13 khẳng định phải “phấn đấu bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau”. Tháng 9, hiến pháp Việt Nam được tu chỉnh để bỏ đoạn coi Trung Quốc là kẻ thù. Trung Quốc không còn là kẻ thù sau khi đã đánh chiếm Trường Sa!
Chúng ta đều phẫn nộ vì sự thần phục quá đáng của Việt Nam đối với Trung Quốc nhưng ít ai ý thức rằng để được thần phục Trung Quốc đảng CSVN đã bắt nước ta trả giá rất đắt.
Nhìn lại giai đoạn lịch sử vừa qua cũng chua xót như nhìn lại giai đoạn nhà Nguyễn bị quân Pháp chinh phục hồi thế kỷ 19. Cũng bám lấy Trung Quốc và một chủ nghĩa đã lỗi thời để từ chối một thay đổi vừa đúng vừa bắt buộc. Chủ nghĩa lỗi thời lần này là chủ nghĩa Mác-Lênin thay vì Khổng Giáo. Chính trị Việt Nam vẫn giữ nguyên sự mù quáng sau một thế kỷ. Điểm khác nhau là ngày trước triều Nguyễn bám lấy Trung Quốc để chống một kẻ thù, lần này Đảng Cộng Sản bám lấy chính kẻ thù.
Người ta khó có thể không đặt những câu hỏi tương tự trong hai trường hợp.
Nếu ở thế kỷ 19 nhà Nguyễn thay vì bám lấy Khổng Giáo và ngoan cố làm chư hầu Trung Quốc mạnh dạn mở cửa ra với phương Tây?  
Nếu sau năm 1975 hay vào năm 1984 thay vì bám lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và chọn làm đàn em Liên Xô rồi hàng phục Trung Quốc đảng cộng sản chọn dứt khoát chuyển hóa về dân chủ?
Gần hơn và khẩn cấp hơn, trong lúc này khi mà khả năng đất nước tách khỏi quỹ đạo Trung Quốc và ra khỏi bế tắc khá lớn nhưng chưa chắc chắn, là những câu hỏi nhức nhối:
Tại sao một thay đổi đột ngột và toàn diện như thế trong chính sách đối với Trung Quốc, từ chống đối hung hăng sang thần phục ngoan ngoãn, lại có thể được quyết định và thực hiện bởi một vài người lãnh đạo thiển cận mà không bị chống đối? Như vậy có thể nói tới một thành phần sáng suốt trong ĐCSVN không?
Và tại sao các trí thức Việt Nam cũng chỉ nhận ra thay đổi này khi nó đã hoàn tất? Phải đánh giá thế nào trình độ nhận thức chính trị của trí thức Việt Nam?
Sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta tránh né những câu hỏi này. Vì rất có thể chính quyền cộng sản lại sắp đưa đất nước vào ngõ cụt một lần nữa.
Nguyễn Gia Kiểng.

(Tháng 8/2012)




....../.