“Bên Thắng Cuộc”



Đọc “Bên Thắng Cuộc”, nghĩ về lịch sử Việt Nam hiện đại


Lê Mai

[...]

Có ý kiến cho rằng, thay vì trình bày lịch sử bao gồm cả thành công và thất bại của chính quyền sau “giải phóng”, bức tranh của Bên Thắng Cuộc có vẻ như thiên về gam “màu tối” hơn là “màu sáng”? Song, chúng ta không nên nhầm lẫn giữa lịch sử và chính trị, cũng không nên nhầm lẫn giữa lịch sử và tuyên truyền. Tuyên truyền cũng quan trọng, song việc đó ai làm cũng được và chắc chắn nó không phải là chủ đề của Bên Thắng Cuộc.

Lịch sử chỉ xẩy ra một lần và duy nhất, còn trình bày lịch sử, giải thích lịch sử thì có thể làm đi làm lại nhiều lần – đại ý lời của ông Võ Nguyên Giáp.

Bên Thắng Cuộc cũng chỉ là một cuốn sách trình bày lại lịch sử, theo nhãn quan của người viết, với những chứng cứ mà tác giả thu thập được. Sự tranh cãi về nội dung cuốn sách, tùy theo góc độ của mỗi người là điều đương nhiên. Chúng ta biết, có không ít những cuốn sử Việt Nam, do những tác giả “nổi tiếng” viết, rất giàu tính đảng, tính nhân dân, đúng quan điểm, lập trường, in đẹp không chê vào đâu được, song liệu có mấy người đọc và nó đưa lại điều gì cho độc giả?

Đọc Bên Thắng Cuộc, tôi thường nghĩ về lịch sử Việt Nam hiện đại đầy “anh dũng” và “đau thương”, nhất là giai đoạn sau “giải phóng”. Bên Thắng Cuộc trình bày những sự kiện như đổi tiền, tù cải tạo, kinh tế mới, đánh tư sản, vượt biên, hai cuộc chiến tranh biên giới… làm người đọc rơi nước mắt (tỷ như cô Hà Linh không thể nào đọc một mạch quyển sách được). Sự thật được tác giả ghi lại một cách khách quan, “nói có sách, mách có chứng”. Dù muốn hay không, lịch sử đã xẩy ra như thế và “người ta không thể thay đổi được quá khứ nhưng có thể thay đổi được tương lai”.

Lịch sử Việt Nam hiện đại có nhiều cơn địa chấn mà kết quả đã làm người dân và đất nước kiệt quệ, tụt hậu ghê gớm so với ngay các nước láng giềng. Đáng buồn hơn nữa là cho đến nay, những cơn địa chấn đó vẫn chưa chấm dứt. Câu hỏi đặt ra, vì sao sai lầm cứ nối tiếp sai lầm và có khi sai lầm sau trầm trọng hơn sai lầm trước?
Cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng được tổ chức như thế nào mà rất dễ phạm sai lầm, liên tục phạm sai lầm và khi đã phạm sai lầm thì rất khó sửa? “Chỉ làm lấy cái để ăn mà khó thế đấy” – Phạm Văn Đồng, vì người ta không muốn thực hiện cơ chế khoán trong nông nghiệp, sợ đi vào con đường tư bản, sợ mất chủ nghĩa xã hội (đã có đâu?).

Khách quan mà nói, hậu quả tiêu cực xẩy ra sau “giải phóng” không như mong muốn của chính quyền và các nhà lãnh đạo cao cấp. Khát vọng về một xã hội tốt đẹp, không có người bóc lột người như Mác nêu ra là cái đích để chính quyền hướng tới. Ý thức hệ có tầm quan trọng bao trùm tất cả, quyết định tất cả. Phải chăng, sai lầm cũng từ đó mà ra? Ngay những bộ óc sáng suốt nhất của đất nước, trước khi Liên Xô sụp đổ, vẫn còn chưa thoát ra khỏi nếp suy nghĩ cũ.
[...]
Nói đến lịch sử Việt Nam hiện đại thì phải nói đến sự vận hành của bộ máy cao nhất, nói đến những nhà lãnh đạo cao cấp, bởi vì bộ máy và con người đó đóng một vai trò rất lớn trong việc ra quyết sách. Bên Thắng Cuộc đã mô tả rất nhiều nhân vật với nhiều tính cách khác nhau, tài năng và cả những hạn chế khác nhau một cách sinh động, hấp dẫn, cuốn hút.

Làm sao chúng ta không kinh ngạc khi biết Bộ Chính trị những năm sáu mươi thế kỷ trước lãnh đạo cả nước với hai nhiệm vụ chiến lược: miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội và miền Nam đấu tranh thống nhất nước nhà mà rất ít việc làm.

Ông Đậu Ngọc Xuân kể: “Nhiều cụ Bộ Chính trị vẫn giết thời gian bằng cách chơi tú-lơ-khơ với tổ phục vụ… Các ủy viên Trung ương lại càng ít việc. Theo ông Nguyễn Văn Trấn, Phó Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, vốn là một thợ cơ khí, nhiều hôm đã lật chiếc xe đạp của ông ra sửa để giết thời gian”.
Ta càng kinh ngạc hơn nữa vì sự mất đoàn kết giữa những người lãnh đạo cao cấp nhất. Điều đó làm Hồ Chí Minh rất buồn, phê bình các Ủy viên Bộ Chính trị: “các chú mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa, chú Lê Duẩn cũng cá nhân chủ nghĩa”.

Nhân vật thứ hai sau Hồ Chí Minh là Lê Duẩn, để lại dấu ấn rất lớn trước và sau “giải phóng”. Bằng cách xâu chuỗi các sự kiện trong Bên Thắng Cuộc, ta thấy Huy Đức thể hiện rất lý thú giấc ngủ của Lê Duẩn. Ông phải mất ngủ ba đêm liền khi quyết định đánh Mỹ, vì suy xét đến yếu tố Liên Xô và Trung Quốc. Ông cũng mất ngủ nhiều đêm vì Pol Pot quấy rối ở phía Nam mà Việt Nam đối phó rất lôi thôi, vì lo ngại Trung Quốc ở phía Bắc. Ấy thế mà khi nghe con rể là Giáo sư Hồ Ngọc Đại đánh thức báo tin, “quân ta đã vào Phnom Penh”, thì ông chỉ “ừ” rồi ngủ tiếp.

Than ôi, “đưa đại quân đến thủ đô một quốc gia khác tưởng nhẹ tựa giấc ngủ trưa của một đấng quân vương”. Sau này, do mắc bệnh tiền liệt tuyến, hầu như không đêm nào ông được ngủ yên cả và ông “đánh mất khả năng lắng nghe”.

Suy nghĩ về lịch sử Việt Nam hiện đại, ta cũng thấy thương cho ông Phạm Văn Đồng. Ông là Thủ tướng mà khi họp Chính phủ, nhìn thấy Đỗ Quốc Sam là thành viên mới, đã hỏi: “Anh là ai, đến đây làm gì?”. Như vậy, Lê Đức Thọ toàn quyền lựa chọn thành viên Chính phủ và thậm chí cũng không (thèm) cho Thủ tướng biết trước. Thế thì, giả sử họ làm không được việc thì đó không phải là lỗi của ông Phạm Văn Đồng.

Lê Đức Thọ chỉ cần vài phút để gạt ông Nguyễn Thành Thơ ra khỏi Trung ương, khi Nguyễn Văn Linh hỏi, ông ta nói, nếu nó năn nỉ tôi, thì tôi đã cho ở lại. Ông Linh: “Người cộng sản chân chính không bao giờ năn nỉ đâu”. Vậy con người mà quyền lực bao trùm thiên hạ Lê Đức Thọ có năn nỉ ai không? Bên Thắng Cuộc cho biết, theo ông Đoàn Duy Thành và Hoàng Tùng, từ khi Lê Duẩn yếu dần, Trường Chinh xử lý hầu hết các công việc trong Đảng. Thế nhưng, Lê Đức Thọ vẫn lên Hồ Tây thăm và xin Lê Duẩn: “Anh ốm, sức khỏe của anh bắt đầu hạn chế, anh giới thiệu với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương để tôi thay anh đi”. Ông Lê Duẩn nói: “Với tình hình Đảng ta bây giờ, anh chưa thay tôi được mà phải Trường Chinh”. Tháng 4-1986, Lê Đức Thọ lại đến, lần này đi hai vợ chồng. Ông Thọ, được tả là đã quỳ xuống chân Lê Duẩn nhưng bị Lê Duẩn hất ra: “Anh lạ thật, tôi đã từ chối rồi. Những khi nào cần nổi danh là anh cứ xin tôi, đi Paris, rồi đi miền Nam khi sắp giành chiến thắng. Tôi đã nói rồi, Trường Chinh”. Có lẽ đây là một nhận xét rất tinh của Lê Duẩn đối với Lê Đức Thọ.

Ta cũng nhận thấy, ông Võ Văn Kiệt xuất hiện rất nhiều trong Bên Thắng Cuộc sau “giải phóng” và thật sự chiếm được tình cảm của nhiều người. Ngược lại, ông Võ Nguyên Giáp xuất hiện không nhiều trong Bên Thắng Cuộc sau “giải phóng”, chứng tỏ, sự can dự của ông vào những quyết sách sai lầm là rất ít, và ông Giáp cũng chiếm được tình cảm của nhiều người. Tiếc rằng, vai trò của ông Giáp trong hai cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc không được Bên Thắng Cuộc đề cập đến. Lưu ý rằng đến thời điểm đó, ông Giáp vẫn là Bộ trưởng Quốc phòng.

Đọc Bên Thắng Cuộc, suy nghĩ về lịch sử Việt Nam hiện đại, ta thấy để biết đúng sự thật lịch sử thật khó khăn. Sự kiện xe tăng 390 húc đổ cánh cổng Dinh Độc lập mà chỉ gần đây mới được làm sáng tỏ. Nhưng, ai là sỹ quan cao cấp nhất của Bắc Việt Nam vào Dinh Độc lập đầu tiên? Có phải là có một người đang sống ở Pari đó, ai cũng biết, đã không được Bên Thắng Cuộc nhắc tới? Và, nếu chủ yếu dựa vào những hồi ký, phỏng vấn để dựng lại toàn bộ lịch sử giai đoạn đó, liệu có đầy đủ và chính xác hay không? Điều này thì chính tác giả Huy Đức đã tiên liệu, “cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, và sẽ còn được bổ sung khi một số tài liệu được Hà Nội công bố”.

Có thể rút ra rất nhiều bài học sau khi đọc Bên Thắng Cuộc, tùy góc độ, lăng kính, chỗ đứng của mỗi người.

Hơn ai hết, người cần rút ra bài học đầu tiên chính là các nhà lãnh đạo, vì họ nắm trong tay việc ra quyết sách, quyết định số phận của hàng triệu con người.

Dù có thiện ý đến đâu chăng nữa, chừng nào còn chưa xác định được con đường đi đúng đắn, còn bị cầm tù bởi ý thức hệ “nhảm nhí” [chữ dùng của ông Trần Việt Phương] còn thiếu một thể chế phù hợp, chừng đó còn gây ra thảm cảnh cho dân tộc, cho đất nước mà lịch sử vừa diễn ra chưa xa vẫn đang nghiêm khắc cảnh cáo chúng ta.

LÊ MAI
  
 ............./.








Vì sao tôi viết?



Osin Huy Đức


Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ, nhất là một quá khứ mà chúng ta can dự và có phần cộng đồng trách nhiệm.

Cuốn sách này bắt đầu bằng những câu chuyện xảy ra trong ngày 30-4-1975. Ngày mà tôi, một cậu bé mười ba, trước giờ học chiều, đang vật nhau ven đồi thì nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải phóng”. Thay vì tiếp tục ăn thua, chúng tôi buông nhau ra.

Miền Nam, theo như những bài học của chúng tôi, sẽ chấm dứt “20 năm rên xiết lầm than”. Trong cái thời khắc lịch sử ấy, trong đầu tôi, một sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý nghĩ: Phải nhanh chóng vào Nam để giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối.

Nhưng hình ảnh miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời làng quê nghèo đói của mình. Trên quốc lộ Một bắt đầu xuất hiện những chiếc xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi đu ngoài cánh cửa gần như chỉ trong một giây trước khi chiếc xe rú ga vọt đi. Hàng chục năm sau, tôi vẫn nhớ hai chữ “chạy suốt” bay bướm, sặc sỡ sơn hai bên thành xe. Cho tới lúc ấy thứ tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết trên những băng khẩu hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ.

Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa - biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe - buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn.

Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh... được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày[1], Thép Đã Tôi Thế Đấy[2]… Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.

Tôi vẫn ở lại miền Bắc, chứng kiến thanh niên quê tôi đắp đập, đào kênh trong những năm “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Chứng kiến khát vọng “thay trời, đổi đất sắp đặt lại giang san” của những người vừa chiến thắng trong cuộc chiến ở miền Nam... Chứng kiến cũng những con kênh đó không những vô dụng với chủ nghĩa xã hội mà còn gây úng lụt quê tôi mỗi mùa mưa tới.

Năm 1983, tôi có một năm huấn luyện ở Sài Gòn trước khi được đưa tới Campuchia làm chuyên gia quân sự. Trong một năm ấy, hai cô em gái của Trần Ngọc Phong[3], một người bạn học chung ở trường sỹ quan, hàng tuần mang tới cho tôi bốn, năm cuốn sách. Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh”. Những năm ấy, góc phố nào cũng có mấy bác xích lô, vừa mỏi mòn đợi khách vừa kín đáo đọc sách. Nhiều người trong số họ mới ở trong các trại cải tạo trở về. Tôi bắt đầu tìm hiểu Sài Gòn từ câu chuyện của những bác xích lô quen như vậy…

Mùa Hè năm 1997, một nhóm phóng viên vì nhiều lý do phải rời khỏi tờ báo Tuổi Trẻ như Đoàn Khắc Xuyên, Đặng Tâm Chánh, Đỗ Trung Quân, Huỳnh Thanh Diệu, Nguyễn Tuấn Khanh, Huy Đức… Chúng tôi thường xuyên gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi với các đồng nghiệp như Thúy Nga, Minh Hiền, Thế Thanh, Cam Ly, Phan Xuân Loan… Thế Thanh lúc ấy cũng vừa bị buộc thôi chức Tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành Phố, và cũng như Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ Kim Hạnh trước đó, chị không được tiếp tục nghề báo mà mình yêu thích.

Chúng tôi nói rất nhiều về thế sự, về những gì xảy ra trên thế giới và ở đất nước mình. Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu nói đó của Tuấn Khanh, nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách.

Rất nhiều thế hệ, kể cả con em của những người đã từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, sau ngày 30-4-1975, cũng trở thành sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhiều người không biết một cách chắc chắn điều gì đã thực sự xảy ra thậm chí với ngay chính cha mẹ mình.

Không chỉ thường dân, cho đến đầu thập niên 1980, nhiều chính sách làm thay đổi số phận của hàng triệu sinh linh như “Phương án II”[4], như “Z 30”[5] cũng chỉ được quyết định bởi một vài cá nhân, nhiều người là ủy viên Bộ chính trị cũng không được biết. Nội bộ người Việt Nam đã có nhiều đụng độ, tranh cãi không cần thiết vì chỉ có thể tiếp cận với lịch sử qua những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền. Không chỉ các thường dân, tôi tin, những người cộng sản có lương tri cũng sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm.

Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc. Hãy để cho các nhà kinh tế chính trị học và các nhà xã hội học nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng lịch sử này. Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ bắt đầu kể những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày 30-4: cải tạo; đánh tư sản; đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975, nói về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.

Tư liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm, và trong vòng ba năm (từ tháng 8-2009 đến tháng 8-2012) tôi đã dành toàn bộ thời gian của mình để viết. Bản thảo cuốn sách đã được gửi tới một số thân hữu và một số nhà sử học, trong đó có 5 nhà sử học của Mỹ chuyên nghiên cứu về Việt Nam. Sau khi sửa chữa, bổ sung, tháng 11-2012, bản thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một số nhà xuất bản trong nước, tuy nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất bản tiếng Việt có uy tín tại Mỹ và Pháp đồng ý in, nhưng để lãnh trách nhiệm cá nhân và giữ cho cuốn sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa cuốn sách này đến tay bạn đọc.   

Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Tuy tác giả có những cơ hội quý giá để tiếp cận với các nhân chứng và những thông tin quan trọng, cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, chắc chắn sẽ còn được bổ sung khi một số tài liệu được Hà Nội công bố. Hy vọng bạn đọc sẽ giúp tôi hoàn thiện nó trong những lần xuất bản sau.

Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc.



Sài Gòn - Boston (2009-2012)




''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''

[1] Tiểu thuyết cách mạng của Trung Quốc.

[2] Tiểu thuyết cách mạng của Liên Xô.

[3] Đạo diễn điện ảnh.

[4] Tổ chức cho người Hoa nộp vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979).

[5] Cải tạo những người giàu lên bất thường (1983).




''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''







'''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''