Tiền của Việt Nam Cộng Hòa

Tiền của Việt Nam Cộng Hòa

Chum Vàng

Chum Vàng

Tác giả: Phạm Duy


ÁI VÂN & ANH DŨNG


Nhà nghèo cuốc bẫm với cầy sâu 
Cuốc bẫm với cầy sâu 
Tang tính tính tình tang 
Nhà nghèo cấy lúa với trồng rau 
Cấy lúa với trồng rau 
Tang tính tính tình tang 
Sớm tối nắng mưa (ư) nhọc nhằn 
Vẫn cứ mến yêu (ư) ruộng đồng 
Nhà nghèo vui sống với nghề nông 
Vui sống với nghề nông 
Tang tính tính tình tang 
Tang tính tính tình tang


2) ÐỒNG RUỘNG: Người chồng hát và làm những động tác như cuốc đất, đào đất, moi cái chum lên, mở nắp chum, lạy Trời : 

Một ngày cuốc đất với đào mương 
Cuốc đất với đào mương 
Tang tính tính tình tang 
Về chiều, moi đất thấy một chum 
Moi đất thấy một chum 
Tang tính tính tình tang 
Tháo nắp thấy trong chum đầy vàng 
Xướng quá cúi khiêng lên bờ này 
Của Trời cho, phúc đức vậy thay 
Con hãy cứ để đây 
Tang tính tính tình tang 
Tang tính tính tình tang


3) VỀ NHÀ (kẻ trộm rình ở bên ngoài hay dưới gầm giường), chồng nói với vợ : 

Về nhà, ta nói với vợ ngoan 
Ta nói với vợ ngoan 
Tang tính tính tình tang 
Chuyện vàng ta đã có một chum 
Ta đã có một chum 
Tang tính tính tình tang 
VỢ : Thế bố nó sao không cầm về ? 
Sẽ mất chum ngay rồi còn gì ? 
CHỒNG : Của Trời cho đó, mất thì thôi 
Nếu có mất... thì thôi ! 
Tang tính tính tình tang 
Tang tính tính tình tang 


Hai thằng ăn trộm và vợ chồng nông dân


4) NGOÀI SÂN : Hai thằng trộm rình từ lâu, chui ra hát : 


Có hai thằng trộm ngồi rình 
Chúng nó nghe chuyện đào được chum 
Bảo nhau xuống bờ mương nhé 
Thấy lù lù có một cái chum 
Hà ha há hà ha há 
Há hà hà hà hà há ha 
Chum này thì khi mở nắp 
Không thấy vàng chỉ thấy rắn thôi 
Ối giời ôi là ối giời ôi 
Chúng sợ quá, vội vàng đậy nắp 
Chum rắn này đem giấu một nơi 
Ối giời ôi là ối giời ôi


5) TRONG NHÀ: Hai vợ chồng đối thoại : 


VỢ : Mặt trời chưa đứng tới ngọn cau 
Chưa đứng tới ngọn cau 
Tang tính tính tình tang 
Chồng mình ra tới chỗ ruộng sâu 
Ra tới chỗ ruộng sâu 
Tang tính tính tình tang 
Ðã thấy mất ngay chum vàng rồi 
Bố nó chao ôi quá dại khờ ! 
CHỒNG : Của Trời cho, nếu lấy lại đi 
Thôi luyến tiếc mà chi ? 
Tang tính tính tình tang 
Tang tính tính tình tang


6) NGOÀI NHÀ : Trong khi vợ chồng nói chuyện mất chum, hai thằng trộm vẫn rình : 


Vẫn hai thằng trộm ngồi rình 
Chúng nó nghi vợ chồng này điên 
Làm chi có vàng trong đó ? 
Thích giầu có nhìn rắn không ra 
Hà ha há hà ha há 
Há hà hà hà há há ha 
Chum này mà ưng, mà muốn 
Khiêng nó lại, trả nó cái chum 
Tang tính tình tình tính tính tang 
Thích vàng quá, thọc vào là chết 
Cho chúng mày rắn cắn một phen 
Tang tính tình tang tính tình tang


7) RUỘNG: Chồng ra ruộng, thấy cái chum, mừng rỡ chạy về nhà, hát : 


CHỒNG : Mình vừa ra tới cánh đồng xa 
Ra tới cánh đồng xa 
Tang tính tính tình tang 
Kìa là cái phúc (ứ) Trời cho 
Cái phúc (ứ) Trời cho 
Tang tính tính tình tang 
VỢ : Bố nó kiếm ra chum vàng rồi 
Thế cớ sao không gánh về nhà ? 
CHỒNG : Của Trời cho, nếu đã thật cho 
Mai sẽ đến nhà ta 
Tang tính tính tình tang 
Tang tính tính tình tang


8) NGOÀI NHÀ : Hai thằng trộm lại tới rình, rồi hát : 


Khiến hai thằng trộm ở ngoài 
Nó tức lên vì vợ chồng kia 
Mày không lấy về chum rắn 
Thế thì mình phải gánh chum đi 
Hà ha há hà ha hà 
Há hà hà hà há ha ha 
Ðem về đặt chum ở đó 
Ngay trước nhà, để đó giữa sân 
Tang tính tình tang tính tình tang 
Thích giầu có, thọc vào là chết 
Cho chúng mày rắn cắn một phen 
Tang tính tình tang tính tình tang


Hai kẻ trộm khiêng chum về đặt trên sân nhà... 

9) GIỮA SÂN KHẤU: Hai vợ chồng ra sân thấy cái chum, mừng quá đứng hát : 


CHỒNG : Mình à ! ta nói đã chẳng sai 
Ta nói đã chẳng sai 
Tang tính tính tình tang 
Trời mà cho, sẽ có, đừng tham 
Sẽ có nhớ đừng tham 
Tang tính tính tình tang 
Sớm tối sẽ thôi (ư) nhọc nhằn 
Sống rất ấm vui (ư) thật nhàn 
Giầu là do cái số dửng dưng 
Xin chớ có đảo điên 
Tang tính tính tình tang 
HỢP CA : Giầu rồi ta giúp những bạn quen 
Trong thiếu thốn, một phen 
Tang tính tính tình tang 
Càng giầu càng muốn giúp người ta Ai thiếu thốn nghèo hơn 
Giầu rồi đi du hí gần xa 
Nơi thế giới tự do 
Tang tính tính tình tang...

Bà Mẹ Gio Linh

Bà Mẹ Gio Linh

Phạm Duy  
Nhạc Hòa Tấu 





Mẹ già cuốc đất trồng khoai 
Nuôi con đánh giặc đêm ngày 
Cho dù áo rách sờn vai 
Cơm ăn bát vơi bát đầy 

Hò ơi ơi ới hò ! Hò ơi ơi ới hò ! 

Nhà thì nó đốt còn đây 
Khuyên nhau báo thù phen này 
Mẹ mừng con giết nhiều Tây [..đánh giặc hay ]
Ra công sới vun cầy cấy 

Hò ơi ơi ới hò ! Hò ơi ơi ới hò ! 

Con vui ra đi, sớm tối vác súng về 
Mẹ già một con yêu nước có kém chi 
Đêm nghe xa xa có tiếng súng lắng về 
Mẹ nguyện cầu cho con sống rất say mê. 

Mẹ già tưới nước trồng rau 
Nghe tin xóm làng kêu gào 
Quân thù đã bắt được con 
Đem ra giữa chợ cắt đầu 
Hò ơi ơi ới hò ! Hò ơi ơi ới hò ! 
Nghẹn ngào không nói một câu 
Mang khăn gói đi lấy đầu 
Đường về thôn xóm buồn teo 
Xa xa tiếng chuông chùa gieo 

Hò ơi ơi ới hò ! Hò ơi ơi ới hò ! 

Tay nâng nâng lên, rưng rức nước mắt đầy 
Mẹ nhìn đầu con, tóc trắng phất phơ bay 
Ta yêu con ta, môi thắm bết máu cờ 
Nụ cười hồn nhiên, đôi mắt ngó trông ta. 

Mẹ già nấu nước chờ ai 
Đêm đêm súng nổ vang trời 
Giật mình em bé mồ côi 
khăn tang cũng hoen tiếng cười..

Hò ơi ơi ới hò ! Hò ơi ơi ới hò ! 

Bộ đội đã ghé về chơi 
Khơi vui bếp lửa tơi bời 
Mẹ già đi lấy nồi khoai 
Bưng lên khói ' hương [?]' mờ bay 

Hò ơi ơi ới hò ! Hò ơi ơi ới hò ! 

Khi trông con nuôi xúm xít dưới túp nhà 
Mẹ nhìn đàn con thương nhớ đứa con xưa 
Con, con con ơi ! Uống hết bát nước đầy 
Ngày một ngày hai, con nhớ ghé chơi đây.



.............

Du Tử Lê


Du Tử Lê tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ Việt Nam đang định cư ở nước ngoài.

Ông sinh năm 1942 tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, miền Bắc Việt Nam.
Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội AnQuảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa.
Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai.
Du Tử Lê từng là sĩ quan thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu phóng viên chiến trường, thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa), và là giáo sư dạy giờ cho một số trường trung học Sài Gòn.
Năm 1973 tại Sài Gòn, ông được trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩmThơ tình Du Tử Lê 1967-1972.
Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Du Tử Lê cùng với Mai Thảo và Phạm Duy bị kết án tử hình vắng mặt trên đài phát thanh của Mặt trận giải phóng Miền Nam vì có thái độ chống đối cộng sản quyết liệt. Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, ông tị nạn cộng sản tại Hoa Kỳ.
Hiện ông đang sống ở miền Nam California, tiếp tục nghề viết, và là nhân viên khế ước của đài tiếng nói Hoa Kỳ từ năm 1996. Ông cũng từng là chủ nhiệm các báo Việt ngữ Nhân chứngTay Phải, và Văn nghệ ở Hoa Kỳ.

http://vi.wikipedia.org/wiki/Du_T%E1%BB%AD_L%C3%AA



Duyên nghiệp


Vũ Hoàng: Trước hết, cám ơn ông đã dành cho đài ACTD buổi trò chuyện hôm nay ạ. Vũ Hoàng muốn biết vì sao rất nhiều nhạc sĩ lại chọn thơ của ông để phổ nhạc. Có điểm đặc biệt gì trong những bài thơ đó mà rất nhiều trong số này đã thành công không thưa ông?
Nhà thơ Du Tử Lê:  Câu hỏi của Vũ Hoàng làm tôi cũng lúng túng. Chính bản thân tôi cũng không biết vì sao cả. Hồi đầu số người phổ nhạc bắt đầu là những ông như Nguyễn Hiền, rồi Phạm Duy, Phạm Đình Chương. Hồi ở Việt Nam trước năm 1975, thì lúc đầu tôi nghĩ đó là một cái duyên, nhưng sau đó, nhiều quá tôi cũng không biết làm sao. Câu trả lời rất thành thật thưa quí thính giả và thưa Vũ Hoàng.
Vũ Hoàng: Dạ vâng, Vũ Hoàng có nói chuyện với nhạc sĩ Từ Công Phụng thì được ông cho biết là trong thơ của thi sĩ có sự nhân cách hóa được những sự vật, những điều rất bình thường để biến nó thành như những con người trong thơ.
Nhà thơ Du Tử Lê: Có lẽ nhận định của nhạc sĩ Từ Công Phụng cũng là một nhận định. Nhưng như vậy, chúng ta sẽ nói sang phần kỹ thuật một chút, thì tôi hy vọng thính giả không khó chịu lắm.
Thơ thì có kỹ thuật của nó. Kỹ thuật căn bản của thơ là so sánh, vật này với vật kia, liên tưởng, liên tưởng vật này với vật khác, thứ ba là nhân cách hóa và thứ tư là ẩn dụ. Đồng thời tôi cũng chủ tâm linh động hóa những sự vật nó cố định. Nếu mình không nhân cách hóa được thì linh động hóa, cho nó một sức sống hay là một sự chuyển động thì đó là quan niệm của tôi, cũng tạm gọi là đặc biệt đi.
Vũ Hoàng: Thưa ông, Vũ Hoàng cũng không am hiểu nhiều về thơ, thì thấy rằng luật bằng trắc đôi khi phải rơi vào những giai điệu lên xuống của bài hát thì nghe mới xuôi được, không biết chuyện dấu, sắc hỏi huyền ngã… thi sĩ Du Tử Lê sẽ chọn và đặt như thế nào?
Nhà thơ Du Tử Lê: Câu hỏi rất là hay, hay lắm. Tôi không chú ý đến cái đó. Tôi lấy một thí dụ cụ thể nhé. Một trong những người trẻ phổ nhạc thơ của tôi là nhạc sĩ Trần Duy Đức, anh có phổ một bài khá thành công là bài Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu. Thì Vũ Hoàng thấy rằng ngay câu đầu tiên của tôi là 2 vần trắc đi với nhau: Ở – vần trắc, Chỗ – vần trắc. Chưa kể là ông Phạm Đình Chương hay anh Trần Duy Đức chọn phổ những bài thơ tự do, không có vần điệu, không đều đặn, không êm ả đâu. Khi tôi làm thơ thì không hề có chủ tâm để phổ nhạc, chưa bao giờ có ý định đó cả.
Vũ Hoàng: Vâng bản Khúc Thụy Du thì sao ạ?
Nhà thơ Du Tử Lê:  Vũ Hoàng có biết là trước khi phổ nhạc bài đó thì tôi và ông Anh Bằng hoàn toàn không biết nhau, ông đi mua sách của tôi, cuốn tôi tái bản bên này. Một buổi tối ông đi tìm tôi, tôi có một quán cà phê nho nhỏ, ông nói là xin gặp ông Du Tử Lê, tôi bảo tôi chính là Du Tử Lê đây, anh cần cái gì.
Chuyện vui lắm, tôi viết xuống rồi, bây giờ tôi kể lại cho Vũ Hoàng và quí thính giả nghe, thì ông nói tôi là Anh Bằng đây, tôi mới nói tôi biết anh, anh cần gì không. Thì lúc đó ông nói, tôi mới đi mua cuốn sách của anh, lúc đó còn anh anh tôi tôi và tôi phổ một bản nhạc mà tôi không biết hát. (cười). Vâng, tôi muốn đưa một cái rất tình cờ như vậy. Rất nhiều người nhạc sĩ khi họ phổ thơ của tôi, họ không biết tôi là ai cả, tôi cũng chẳng biết họ là ai cả.
Vũ Hoàng: Vâng, nó như một duyên số đến với nhau phải không ạ?
Nhà thơ Du Tử Lê:  Vâng, nó là một duyên nghiệp, nếu nó hay, nó sẽ chắp cánh cho bài thơ, thì mình gọi là cái duyên, nếu nó dở, nó giết bài thơ thì mình gọi là cái nghiệp. (cười).

Hơn 300 bài thơ được phổ nhạc

du-tu-le-250.jpgVũ Hoàng:Bây giờ Vũ Hoàng quay lại thơ của chú, Vũ Hoàng biết rất nhiều nhạc sĩ phổ thơ của chú, thì chú có thống kê được bao nhiêu bài đã được phổ rồi không ạ?
Nhà thơ Du Tử Lê: Thống kê thì không thể thống kê được, ước lượng thì có thể được, riêng nhạc sĩ Anh Bằng đã khoảng trên 20 bài, nhạc sĩ Song Ngọc cũng phổ nhạc khoảng 50-60 bài, nhạc sĩ Trần Duy Đức cũng phổ trên 20 bài, anh Khang Thụy phổ thơ tôi khoảng 40 bài, nếu bây giờ tôi gom lại tất cả những bài thơ đó, thì con số sẽ không dưới 300 bài thơ.
Trong đó có một bài 4-5 người phổ, mỗi người cho bản nhạc một version (thể điệu) khác nhau. Tôi thí dụ bài Ơn Em, người đầu tiên phổ không phải là Từ Công Phụng, người đầu tiên là nhạc sĩ Phạm Duy, ông phổ điệu ballad có pha Tây Nguyên, ông giữ nguyên văn “Kiếp Sau Xin Giữ Lại Đời Cho Nhau”. Khoảng 2 năm sau, ông Từ Công Phụng thấy bài đó, thì ông nói rằng biết nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc rồi, nhưng ông nghĩ là ông có thể cho nó một version khác (thể điệu). Cũng giống một bức tranh, mỗi người nhìn một bức tranh khác nhau, khi phổ nhạc thì anh Từ Công Phụng cắt đi để khỏi trùng tên và chọn nhan đề Giữ Đời Cho Nhau.
Vũ Hoàng: Vâng, tuyệt vời ạ. Đó là điểm rất đặc biệt đấy ạ. Vũ Hoàng cám ơn thi sĩ rất nhiều đã dành thời gian cho buổi trò chuyện hôm nay ạ. 

...........

HOA SEN - PHÙNG QUÁN






HOA SEN  
PHÙNG QUÁN

Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Mặc cho câu ca được cả nước lưu truyền
Và đời vẫn tin là ca ngợi phẩm chất của sen.
    Nhưng tôi không thể nào tin được
           Câu ca này gốc gác tự nhân dân
           Bởi câu ca sặc mùi phản trắc
           Của những phường bội nghĩa vong ân!
           Vốn con cái của giai cấp cùng khổ
           Chúng chòi lên cuộc đời quyền lực vàng son
           Nghĩ đến mẹ cha chúng xấu hổ
           Chúng mưu toan giấu che từ bỏ
           Nói xa gần chúng mượn chuyện sen
           … Nhị vàng bông trắng lá xanh
          Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
          Tất cả là trong cái chữ gần
          Chỉ một chữ mà ta thấu gan thấu ruột
          Những manh tâm bội nghĩa vong ân.
          Bùn với sen đâu phải chuyện gần?
          Chính là sen mọc lên từ trong đó
          Gốc của sen là thăm thẳm bùn đen
          Nhị vàng , bông trắng, lá xanh…
          Tất cả, tất cả, tất cả…!
           Là do bùn nuôi dưỡng
           Ngay cả hương thanh khiết ta đặt lên bàn thờ cúng
           Cũng là xương thịt của bùn tanh!
           Như nhân dân: Gian truân, thầm lặng, vô danh
          Đã sinh ra vĩ nhân, anh hùng, nghệ sỹ…
          Nhân danh bùn! Nhân danh sen!
          Tôi đề nghị: Đuổi câu phản trắc này khỏi kho báu dân gian!


    (Thơ Phùng Quán, NXB Văn học, 2003;  tr.  174 – 175)
                    
       


Chân dung Phùng Quán (Thanh Tùng chụp năm 1990).