...tiếng lóng


baybabonchin



...tiếng lóng SÀIGÒN một thời 




Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi chiến tranh, Sài Gòn nhiễu nhương buồn phiền."Sức Mấy" cũng là bút danh của một cây bút chuyên viết mục phiếm luận trên nhật báo Hòa Bình. Trước đó, "Sức mấy" là mục phiếm trên nhật báo Chính Luận cũng do cây bút cây bút châm biếm tên tuổi này phụ trách.

Rồi một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã chế ra một điệu còi ô tô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi ô tô 9 nốt "tính tính tè tè, tè ti tè ti té",  tức "Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám" theo một câu hát trong bài Sức mấy mà buồn làm cho đường phố càng náo nhiệt hơn.

Cũng từ bài hát Diễm xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra cụm từ tiếng lóng "xưa rồi Diễm", mỗi khi có ai lặp lại một đòi hỏi nào đó, mà người nghe muốn gạt phăng đi.

Thời các vũ trường mới có mặt ở Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng bóng "Cai gà", gọi cảnh sát là "mã tà", vì police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành "mã tà".

Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: "gác-dang" tức người làm bảo vệ. Do từ tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dang.
Cũng như nói "de cái đít" tức lùi xe-arriere.
Tiền bồi dưỡng người phục vụ tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi "tiền boa", sau này này nói nói gọn là "tiền bo".
Cũng thời Pháp thuộc, Sài Gòn có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi ngân hàng là nhà băng, thì còn hiểu, nói theo từ banque, nhưng sao gọi tem dán bao thư gọi là "con cò", còn nếu gọi "ông cò" là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi "thầy cò" tức là các ông chữa morasse các tòa báo do chữ correcteur.
Thời ấy gọi "cò mồi" là tay môi giới chạy việc, "ăn tiền cò" thì cũng giống như "tiền bo" nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.
Thời kinh tế mới phát triển, cuối những năm năm mươi, sáu mươi thế kỷ trước, đi xe ôtô gọi là đi "xế hộp", đi xe ngựa gọi là đi "ôtô hí". Đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là "xế điếc", đi khiêu vũ gọi là "đi bum", đi tán tỉnh chị em gọi là đi "chim gái", đi ngắm chị em trên phố gọi là "đi nghễ", gọi chỉ vàng là "khoẻn", gọi quần là "quởn", gọi bộ quần áo mới là "đồ dzía" hay "đồ vía". Đi chơi bài tứ sắc các bà gọi là "đi xòe", đi đánh chắn gọi là "múa quạt", đi chơi bài mạt chược các ông gọi là "đi thoa".
Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 - 1950 du nhập Sài Gòn, đó là "đi đầu dầu", tức các chàng trai ăn diện "đi nghễ" với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng coóng, dù trời nắng chảy mỡ.
Tuyệt vời gọi là "hết sẩy", quê mùa chậm chạp gọi là "âm lịch", hách dịch tự cao gọi là "chảnh".
Tiền bạc gọi là "địa", có nhiều tiền gọi là "mập địa". Khách gọi là "khứa". Người khách lớn tuổi gọi "khứa lão"… Có thời trong giới bụi đời thường kháo câu "khứa lão mập địa" có nghĩa ông khách già đó lắm tiền. Tống tiền nhẹ nhàng ai đó thì gọi là "bắt địa". Không giữ lời hứa gọi là "xù", "xù tình", tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Nợ tiền không trả gọi là "xù tiền". Ăn cắp là "chôm chỉa", tương tự như "nhám tay" hay "cầm nhầm" những thứ không phải của mình. Nhóm tiếng lóng này còn có cụm từ "chà đồ nhôm" tức nói lái câu lóng chôm đồ nhà đem bán.
Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng "hia mão". Có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi "kép chầu" có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó không được nhập biên chế gánh hát, đêm đêm họ cũng xách va ly trang phục phấn son đến ngồi café quán cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì "kép chầu" thay thế vào ngay. "Kép chầu" phải thuần thục rất nhiều tuồng để "đau đâu chữa đó". Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một ở cạnh các rạp hát, hai là quanh các tòa soạn báo chí, đó là "café à la... ghi" tức uống café thiếu tiền ghi sổ nợ.
Thường thì khách " à la ghi" hầu hết là  kép hát và cánh phóng viên.

[2]


Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài Gòn xưa gọi "nhật trình", nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là "tin kho tiêu", các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là "tin chó cán xe", tin quan trọng chạy tít lớn gọi là "tin vơ-đét"- vedette - nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là "luộc bài". Chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là "xào bài". Truyện tình cảm dấm dớ gọi là "tiểu thuyết ba xu". Các tạp chí bình dân xoi mói đời tư gọi là "báo lá cải".

Làng "nhật trình" kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là "tin phịa". Nhưng trong "tin phịa" còn có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là "tin ballons" tức thả quả bóng thăm dò, hay tin thi đua nói bịa, nói dối chỉ được xuất hiện vào ngày một tháng tư, gọi là "tin Cá tháng Tư".

Người đàn ông có nhiều vợ bé gọi là "Đoàn Chỉnh Thuần"
Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là "vòng vo Tam Quốc", ai nói chuyện phi hiện thực gọi là "chuyện Phong thần", tính nóng nảy gọi là "Trương Phi".
Một số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là "Nhạc Bất Quần" tức ám chỉ người ngụy quân tử, gọi là "Đoàn Chỉnh Thuần" tức ám chỉ đàn ông đa tình có nhiều vợ bé...
Sài Gòn là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng "ăn theo" mà ra đời. Thời Mỹ đến thì một tiếng "OK Salem", mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là "sén" hay "chó lửa". Dân chơi miệt vườn gọi "công tử Bạc Liêu" còn hiểu được, Sài Gòn xuất hiện cụm từ "dân chơi cầu ba cẳng" thì thật không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng bắc qua kênh Tàu Hũ, nối quận 5 với quận 8, có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cái trụ gỗ cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi "dân chơi cầu ba cẳng"? Đó cũng là lúc các tiếng lóng như "dân xà bát", "anh chị bự", "tay chơi" ra đời. Bị bắt gọi là "tó", vào tù gọi là "xộ khám". Trốn học gọi là "cúp cua", bỏ sở làm đi chơi gọi là "thợ lặn", thi hỏng gọi là "bảng gót". Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K.Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó "đi ăn chè" trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô.

Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như "chà đồ nhôm" tức "chôm đồ nhà", "chai hia" tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với "cưa đôi".
Lóng thời sự loại này có "tô ba lây đi xô xích le" tức "Tây ba lô đi xe xích lô". Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than "buồn như chấu cắn", hay có người than phiền vì câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng "lu bu" để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm "lu xu bu" nại lý do không rõ ràng để trốn việc…

Để kết thúc, xin thêm vào vài từ lóng hiện đại cho có xưa có nay. Một tiếng lóng nghe đâu xuất phát từ nhà văn quá cố Nguyễn Tuân, thay cho  cụm từ rủ nhau (chứ không phải mời) đi ăn theo kiểu Mỹ - ai ăn nấy trả- của người Sài Gòn. Đó là cụm từ lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của "Không - Ai - Mời - Ai". Ví dụ rủ nhau đi ăn phở KAMA, tức cùng đi ăn phở mà không ai mời ai.
Cũng vậy, người bình dân Sài Gòn hiện nay chế ra cụm đi ăn chơi "Kampuchia" tức cùng đi ăn chơi nhưng khi tính tiền thì chia đều.

Vào thời văn minh hiện đại, ngôn ngữ tiếng Anh trở thành phổ biến, giới trẻ đã chế ra một tiếng lóng khá văn hoa. Chê một ai đó "chảnh", các cô nói hắn ta "lemon question" tức chanh hỏi = chảnh. Hoặc nửa Anh nửa Việt: No four = không bốn = vô tư = khỏi lo!

Lại có tiếng lóng lai Anh-Hoa khá thú vị: Đồng ý với ai đó chuyện gì, thay vì nói ok thì nói gà đen vì ô là đen còn kê là gà.


Lê Văn Sâm



//////